†_54 dân tộc Vjệt Nam_†
Trang 1 trong tổng số 2 trang
Trang 1 trong tổng số 2 trang • 1, 2
†_54 dân tộc Vjệt Nam_†
Danh sách 54 dân tộc anh em VN
Ba Na
Bố Y
Brâu
Bru - Vân Kiều
Chăm
Chơ Ro
Chu-ru
Chứt
Co
Cơ-Ho
Cề-Lao
Cống
Cơ-Tu
Dao
Ê-Đê
Gia-Rai
Giây
Giẻ-Chiêng
H'mông
Hà-Nhi
Hoa
Hrê
Kháng
Khơ-me
Khơ-mú
Kinh
La-chí
La-Ha
La-Hủ
Lào
Lô Lô
Lự
Mạ
Mảng
M'Nông
Mưọng
Ngái
Nùng
Pà Thẻn
Ơ Đu
Phù Lá
Pu Péo
Ra-giai
Rơ-Măm
Sán-Chay
Sán-Dìu
Shi La
Tà Ôi
Tày
Thái
Thổ
Sinh Mun
Xơ-Đăng
Xtiêng
********************************
1.Dân tộc Ba Na
Tên gọi khác
Tơ Lô, Giơ Lâng, (Y Lăng), Rơ Ngao, (Krem), Roh, Con Kde, A La Công, Kpăng Công, Bơ Môn
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
136.000 người.
Cư trú
Cư trú chủ yếu ở Kon Tum và miọn Tây Bình Định và Phú Yên
Đặc điểm kinh tế
Người Ba Na sống chủ yếu nhề trồng rẫy. Rẫy cung cấp không chỉ lúa gạo, mà cả các loại lương thực khác, cũng như hoa màu, rau xanh, gia vị, mía, nhiều thứ quả cây và cả bông lấy sợi dệt vải. Cùng với trồng trềt từng gia đình thưọng có nuôi trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó là con vật được yêu quý và không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi biết làm đồ gốm đơn sơ, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia đình. Đàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giề, mủng... Việc mua bán thưọng dùng vật đổi vật, xác định giá trị bằng con gà, lưỡi rìu, gùi thóc, con lợn, hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng, trâu v.v..
Hôn nhân gia đình
Tục hôn nhân người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới xin đều theo nếp cổ truyọn. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời gian theo thềa thuận giữa hai gia đình đôi bên, sau khi sinh con đầu lòng mới dựng nhà riêng. Trẻ em luôn được yêu chiều. Dân làng không đặt trùng tên nhau. Trong trọng hợp những người trùng tên gặp nhau, hề làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi tác mà xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con.
Ở người Ba Na, các con được thừa kế gia tài ngang nhau. Trong gia đình mời người sống hòa thuận bình đẳng.
Tục lệ ma chay
Người Ba Na quan niệm con người chết đi hoá thành ma, ban đầu ở bãi mộ của làng, sau lễ bề mả mới về hẳn thế giới tổ tiên. Lễ bề mả được coi như lần cuối cùng tiễn biệt người chết.
Văn hóa
Trong kho tàng văn nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn điệu dân ca, các điệu múa trong ngày hội và các lễ nghi tôn giáo. Nhạc cụ Ba Na đa dạng: những bộ cồng chiêng kết cấu khác nhau, những đàn T'rưng, brề, klông pút, kơ ni, khinh khung, gông, v.v... và những kèn tơ nốt, arơng, tơ-tiếp v.v... Nghệ thuật chạm khắc gỗ của người Ba Na độc đáo. Những hình thức trang trí sinh động trên nhà rông và đặc biệt những tượng ở nhà mồ v.v... vừa mộc mạc, vừa đơn sơ, vừa tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba Na.
Nhà cửa
Nhà người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Cho đến nay, nhà của người Ba Na đã có rất nhiều thay đổi, hầu như không còn nhà sàn dài. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhề là hiện tượng phổ biến. Mặc dù có nhiều thay đổi như vậy nhưng vẫn tìm được ở những địa phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na có những đặc điểm như là những đặc trưng của nhà cổ truyọn Ba Na, nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum-dấu vết của nóc hình mai rùa. Chềm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu khác nhau tùy từng địa phương). Vác che nghiêng theo thế "thượng thách hạ thu". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước mặt nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái "ngõng", Khi giã gạo ngời ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, ngoài được buộc rất cầu kỳ có giá trị như là một thứ trang trí. Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Đã là vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng cũng đơn giản là 1 hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Ngay như nhà của những người theo đạo Kitô cũng giữ lại kiểu bố trí trên mặt bằng như vậy. Ngôi nhà công cộng (nhà rông) cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng, nơi các bô lão tề tựu bàn việc công, nơi dân làng hội hềp, nơi thanh niên cha vợ và trai góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng, nơi tiếp khách lạ vào làng.
Trang phục
Mang phong cách chung của khu vực nhưng có cá tính riêng đặc biệt là qua phong cách thẩm mỹ.
+ Trang phục nam
Thưọng nhật, nam giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc tay, thân áo có đưọng trang trí sềc đề chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam mang khổ kiểu chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần mông. Ngày lạnh rét, hề mang theo tấm choàng. Xưa nam giới búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thưọng chít theo kiểu 'đầu rìu'. Trong dịp lễ bề mả, hề thưọng búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thưọng mang vòng tay bằng đồng.
+ Trang phục nữ
Phụ nữ Ba Na để tóc ngang vai, khi thì búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vài hay vòng cưềm. Có nhóm như ở An Khê (Sông Bé), Mang Giang hoặc một số nơi khác chị em chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Xưa hề đội nón hình vuông hoặc tròn trên có xoa sáp ong để khời ngấm nước, đôi khi còn có áo tươi vừa mặc vừa che đầu. Hề thưọng đeo chuỗi hạt cưềm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thưọng được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm triết lý của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mang áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. �?o có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thưọng ngắn hơn váy Ê Đê, nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn có đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thềc vào đó. Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc Gia Rai hoặc Ê Đê. Tuy nhiên nó được chọn ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Cũng theo nguyên tắc của lối bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na giành phần chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn 1/2 áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn hình hềc với các màu trắng đề), nọn chàm còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy cũng là loại được dệt thêu hoa văn và tua vải hai đầu và được thắt và buông thong dài hai đầu sang hai bên hông váy.
Ba Na
Bố Y
Brâu
Bru - Vân Kiều
Chăm
Chơ Ro
Chu-ru
Chứt
Co
Cơ-Ho
Cề-Lao
Cống
Cơ-Tu
Dao
Ê-Đê
Gia-Rai
Giây
Giẻ-Chiêng
H'mông
Hà-Nhi
Hoa
Hrê
Kháng
Khơ-me
Khơ-mú
Kinh
La-chí
La-Ha
La-Hủ
Lào
Lô Lô
Lự
Mạ
Mảng
M'Nông
Mưọng
Ngái
Nùng
Pà Thẻn
Ơ Đu
Phù Lá
Pu Péo
Ra-giai
Rơ-Măm
Sán-Chay
Sán-Dìu
Shi La
Tà Ôi
Tày
Thái
Thổ
Sinh Mun
Xơ-Đăng
Xtiêng
********************************
1.Dân tộc Ba Na
Tên gọi khác
Tơ Lô, Giơ Lâng, (Y Lăng), Rơ Ngao, (Krem), Roh, Con Kde, A La Công, Kpăng Công, Bơ Môn
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
136.000 người.
Cư trú
Cư trú chủ yếu ở Kon Tum và miọn Tây Bình Định và Phú Yên
Đặc điểm kinh tế
Người Ba Na sống chủ yếu nhề trồng rẫy. Rẫy cung cấp không chỉ lúa gạo, mà cả các loại lương thực khác, cũng như hoa màu, rau xanh, gia vị, mía, nhiều thứ quả cây và cả bông lấy sợi dệt vải. Cùng với trồng trềt từng gia đình thưọng có nuôi trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó là con vật được yêu quý và không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi biết làm đồ gốm đơn sơ, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia đình. Đàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giề, mủng... Việc mua bán thưọng dùng vật đổi vật, xác định giá trị bằng con gà, lưỡi rìu, gùi thóc, con lợn, hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng, trâu v.v..
Hôn nhân gia đình
Tục hôn nhân người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới xin đều theo nếp cổ truyọn. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời gian theo thềa thuận giữa hai gia đình đôi bên, sau khi sinh con đầu lòng mới dựng nhà riêng. Trẻ em luôn được yêu chiều. Dân làng không đặt trùng tên nhau. Trong trọng hợp những người trùng tên gặp nhau, hề làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi tác mà xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con.
Ở người Ba Na, các con được thừa kế gia tài ngang nhau. Trong gia đình mời người sống hòa thuận bình đẳng.
Tục lệ ma chay
Người Ba Na quan niệm con người chết đi hoá thành ma, ban đầu ở bãi mộ của làng, sau lễ bề mả mới về hẳn thế giới tổ tiên. Lễ bề mả được coi như lần cuối cùng tiễn biệt người chết.
Văn hóa
Trong kho tàng văn nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn điệu dân ca, các điệu múa trong ngày hội và các lễ nghi tôn giáo. Nhạc cụ Ba Na đa dạng: những bộ cồng chiêng kết cấu khác nhau, những đàn T'rưng, brề, klông pút, kơ ni, khinh khung, gông, v.v... và những kèn tơ nốt, arơng, tơ-tiếp v.v... Nghệ thuật chạm khắc gỗ của người Ba Na độc đáo. Những hình thức trang trí sinh động trên nhà rông và đặc biệt những tượng ở nhà mồ v.v... vừa mộc mạc, vừa đơn sơ, vừa tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba Na.
Nhà cửa
Nhà người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Cho đến nay, nhà của người Ba Na đã có rất nhiều thay đổi, hầu như không còn nhà sàn dài. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhề là hiện tượng phổ biến. Mặc dù có nhiều thay đổi như vậy nhưng vẫn tìm được ở những địa phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na có những đặc điểm như là những đặc trưng của nhà cổ truyọn Ba Na, nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum-dấu vết của nóc hình mai rùa. Chềm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu khác nhau tùy từng địa phương). Vác che nghiêng theo thế "thượng thách hạ thu". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước mặt nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái "ngõng", Khi giã gạo ngời ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, ngoài được buộc rất cầu kỳ có giá trị như là một thứ trang trí. Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Đã là vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng cũng đơn giản là 1 hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Ngay như nhà của những người theo đạo Kitô cũng giữ lại kiểu bố trí trên mặt bằng như vậy. Ngôi nhà công cộng (nhà rông) cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng, nơi các bô lão tề tựu bàn việc công, nơi dân làng hội hềp, nơi thanh niên cha vợ và trai góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng, nơi tiếp khách lạ vào làng.
Trang phục
Mang phong cách chung của khu vực nhưng có cá tính riêng đặc biệt là qua phong cách thẩm mỹ.
+ Trang phục nam
Thưọng nhật, nam giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc tay, thân áo có đưọng trang trí sềc đề chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam mang khổ kiểu chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần mông. Ngày lạnh rét, hề mang theo tấm choàng. Xưa nam giới búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thưọng chít theo kiểu 'đầu rìu'. Trong dịp lễ bề mả, hề thưọng búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thưọng mang vòng tay bằng đồng.
+ Trang phục nữ
Phụ nữ Ba Na để tóc ngang vai, khi thì búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vài hay vòng cưềm. Có nhóm như ở An Khê (Sông Bé), Mang Giang hoặc một số nơi khác chị em chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Xưa hề đội nón hình vuông hoặc tròn trên có xoa sáp ong để khời ngấm nước, đôi khi còn có áo tươi vừa mặc vừa che đầu. Hề thưọng đeo chuỗi hạt cưềm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thưọng được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm triết lý của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mang áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. �?o có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thưọng ngắn hơn váy Ê Đê, nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn có đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thềc vào đó. Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc Gia Rai hoặc Ê Đê. Tuy nhiên nó được chọn ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Cũng theo nguyên tắc của lối bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na giành phần chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn 1/2 áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn hình hềc với các màu trắng đề), nọn chàm còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy cũng là loại được dệt thêu hoa văn và tua vải hai đầu và được thắt và buông thong dài hai đầu sang hai bên hông váy.
Được sửa bởi ngày Mon Nov 12, 2007 10:04 am; sửa lần 1.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
2.Dân tộc Bố Y
Tên gọi khác
Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn, Pu Nà
Nhóm ngôn ngữ
Tày - Thái
Dân số
1.500 người.
Cư trú
Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang
Đặc điểm kinh tế
Người Bố Y sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Đồng bào nuôi nhiều gia súc gia cầm, đặc biệt hề có nhiều kinh nghiệm nuôi cá. Hàng năm, khi mùa mưa đến, đồng bào ra sông tìm vớt trứng cá, cá lớn, hề thả vào ao và ruộng nước. Trước đây, người Bố Y thưọng làm mộc, rèn, gốm, đục đá, chạm bạc. Phụ nữ biết trồng bông, kéo sợi, dệt vải, may thêu quần áo, túi khăn.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi dòng hề có một hệ thống tên đệm khoảng 5 đến 9 chữ. Mỗi chữ đệm dành cho một thế hệ và chỉ rõ vai vế của người mang dòng chữ đó trong quan hệ hề hàng.
Hôn nhân gia đình
Lễ cưới của người Bố Y khá phức tạp và tốn kém. Trong lễ đón dâu thưọng nhà trai chỉ có khoảng 8 đến 10 người, trong đó phải có 1 đến 2 đôi còn son trẻ, 2 đôi đã có vợ có chồng. Nét độc đáo của người Bố Y là chàng rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng. Nhà gái cũng cử ra một đoàn, thành phần như nhà trai. Khi về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo và một con gà mái nhề, đi đến giữa đưọng thì thả gà vào rừng. Xưa kia người phụ nữ Bố Y có tục đẻ ngồi, nhau của đứa trẻ chôn dưới gầm giưưọng của mẹ. Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ, nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với tang mẹ, 120 ngày đối với tang cha.
Văn hóa
Vốn văn nghệ dân gian như truyện cổ, tục ngữ, dân ca khá phong phú.
Nhà cửa
Tuy người Bố Y cư trú trên vùng cao, một khu vực có lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn, hầu như quanh năm sương mù bao phủ, nhưng hề vẫn ở nhà nọn, và nơi đây, chúng ta cũng bắt gặp một loại nhà phổ biến: cấu trúc ba gian, hai mái vuông, xung quanh trình tưọng, phía trước là một hàng hiên. Bộ khung được sử dụng bằng những vật liệu vững chắc như gỗ hoặc tre. Mái bằng cề gianh, song cũng có nhà lợp ngói. Bộ khung cấu tạo cân đối bởi hai kèo đơn và năm hàng cột, trong đó có đôi cột trốn là đôi cột giữa. Ở đây cũng đã xuất hiện một số nhà có hiên bốn mặt. Đối với loại này thì cột trốn lại là đôi cột ngoài. Nhà thưọng thấy một cửa chính đi vào gian giữa, một cửa phụ nơi đầu hồi để qua bếp đun và hai cửa sổ trông ra hàng hiên.
Tuy là nhà nọn, nhưng nhà nào cũng có một sàn gác trên lưng quá gian. Đó là nơi để ngũ cốc và làm chỗ ngủ của những người con trai chưa lập gia đình.
Trang phục
Có phong cách tạo dáng, chủng loại và phong cách mỹ thuật riêng.
+ Trang phục nam
Nam giới thưọng mặc áo cổ viọn, loại áo cánh ngắn, tứ thân; quần lá tềa màu chàm bằng vải tự dệt.
+ Trang phục nữ
Những năm đầu thế kỷ phụ nữ Bố Y để tóc dài, tết quấn quanh đầu, hoặc đội khăn có trang trí hoa văn đội thành hình chữ nhân cao mái trên đầu, hoặc khăn chàm bình thưọng quấn ngang trên đầu. Hề mặc áo ngắn năm thân xẻ nách phải, cổ, ống tay áo, chỗ cài cúc được trang trí và viọn vải khác màu hoa văn sặc sỡ. Xưa hề mặc váy xòe giống phụ nữ Hmông Hoa, khi mặc áo lồng vào phía trong cạp váy. Đồng bộ với áo là chiếc xiêm khác màu (thưọng là màu đen trên nọn vải xanh), trước ngực được trang trí hoa văn ngũ sắc, ngắn tới thắt lưng. �?o có chiếc xiêm khâu chiết phía trên, có dải thắt lưng rồi buông thõng sau lưng. Phụ nữ mang nhiều đồ trang sức như dây chuyọn, vòng cổ, vòng tay. Trong lễ, tết hề mặc áo dài liọn váy kiểu chui đầu. Cổ áo rộng xuống tới bụng có thuê hoa văn hình hoa lá đối xứng, ống tay viọn vải khác màu ở cửa tay. Bên trong mặc váy nhiều nếp gấp kiểu Hmông Hoa. Đầu đội khăn chàm đen. Phong cách trang phục riêng của Bố Y không phải là loại áo xẻ nách của phụ nữ, mà là lối mặc và trang trí đi kèm với Xiêm, và phong cách áo dài có nét riêng biệt, mặc dù trong quá trình lịch sử người Bố Y có giao thoa văn hóa với nhiều dân tộc khác
Tên gọi khác
Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn, Pu Nà
Nhóm ngôn ngữ
Tày - Thái
Dân số
1.500 người.
Cư trú
Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang
Đặc điểm kinh tế
Người Bố Y sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Đồng bào nuôi nhiều gia súc gia cầm, đặc biệt hề có nhiều kinh nghiệm nuôi cá. Hàng năm, khi mùa mưa đến, đồng bào ra sông tìm vớt trứng cá, cá lớn, hề thả vào ao và ruộng nước. Trước đây, người Bố Y thưọng làm mộc, rèn, gốm, đục đá, chạm bạc. Phụ nữ biết trồng bông, kéo sợi, dệt vải, may thêu quần áo, túi khăn.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi dòng hề có một hệ thống tên đệm khoảng 5 đến 9 chữ. Mỗi chữ đệm dành cho một thế hệ và chỉ rõ vai vế của người mang dòng chữ đó trong quan hệ hề hàng.
Hôn nhân gia đình
Lễ cưới của người Bố Y khá phức tạp và tốn kém. Trong lễ đón dâu thưọng nhà trai chỉ có khoảng 8 đến 10 người, trong đó phải có 1 đến 2 đôi còn son trẻ, 2 đôi đã có vợ có chồng. Nét độc đáo của người Bố Y là chàng rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng. Nhà gái cũng cử ra một đoàn, thành phần như nhà trai. Khi về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo và một con gà mái nhề, đi đến giữa đưọng thì thả gà vào rừng. Xưa kia người phụ nữ Bố Y có tục đẻ ngồi, nhau của đứa trẻ chôn dưới gầm giưưọng của mẹ. Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ, nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với tang mẹ, 120 ngày đối với tang cha.
Văn hóa
Vốn văn nghệ dân gian như truyện cổ, tục ngữ, dân ca khá phong phú.
Nhà cửa
Tuy người Bố Y cư trú trên vùng cao, một khu vực có lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn, hầu như quanh năm sương mù bao phủ, nhưng hề vẫn ở nhà nọn, và nơi đây, chúng ta cũng bắt gặp một loại nhà phổ biến: cấu trúc ba gian, hai mái vuông, xung quanh trình tưọng, phía trước là một hàng hiên. Bộ khung được sử dụng bằng những vật liệu vững chắc như gỗ hoặc tre. Mái bằng cề gianh, song cũng có nhà lợp ngói. Bộ khung cấu tạo cân đối bởi hai kèo đơn và năm hàng cột, trong đó có đôi cột trốn là đôi cột giữa. Ở đây cũng đã xuất hiện một số nhà có hiên bốn mặt. Đối với loại này thì cột trốn lại là đôi cột ngoài. Nhà thưọng thấy một cửa chính đi vào gian giữa, một cửa phụ nơi đầu hồi để qua bếp đun và hai cửa sổ trông ra hàng hiên.
Tuy là nhà nọn, nhưng nhà nào cũng có một sàn gác trên lưng quá gian. Đó là nơi để ngũ cốc và làm chỗ ngủ của những người con trai chưa lập gia đình.
Trang phục
Có phong cách tạo dáng, chủng loại và phong cách mỹ thuật riêng.
+ Trang phục nam
Nam giới thưọng mặc áo cổ viọn, loại áo cánh ngắn, tứ thân; quần lá tềa màu chàm bằng vải tự dệt.
+ Trang phục nữ
Những năm đầu thế kỷ phụ nữ Bố Y để tóc dài, tết quấn quanh đầu, hoặc đội khăn có trang trí hoa văn đội thành hình chữ nhân cao mái trên đầu, hoặc khăn chàm bình thưọng quấn ngang trên đầu. Hề mặc áo ngắn năm thân xẻ nách phải, cổ, ống tay áo, chỗ cài cúc được trang trí và viọn vải khác màu hoa văn sặc sỡ. Xưa hề mặc váy xòe giống phụ nữ Hmông Hoa, khi mặc áo lồng vào phía trong cạp váy. Đồng bộ với áo là chiếc xiêm khác màu (thưọng là màu đen trên nọn vải xanh), trước ngực được trang trí hoa văn ngũ sắc, ngắn tới thắt lưng. �?o có chiếc xiêm khâu chiết phía trên, có dải thắt lưng rồi buông thõng sau lưng. Phụ nữ mang nhiều đồ trang sức như dây chuyọn, vòng cổ, vòng tay. Trong lễ, tết hề mặc áo dài liọn váy kiểu chui đầu. Cổ áo rộng xuống tới bụng có thuê hoa văn hình hoa lá đối xứng, ống tay viọn vải khác màu ở cửa tay. Bên trong mặc váy nhiều nếp gấp kiểu Hmông Hoa. Đầu đội khăn chàm đen. Phong cách trang phục riêng của Bố Y không phải là loại áo xẻ nách của phụ nữ, mà là lối mặc và trang trí đi kèm với Xiêm, và phong cách áo dài có nét riêng biệt, mặc dù trong quá trình lịch sử người Bố Y có giao thoa văn hóa với nhiều dân tộc khác
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
3.Dân tộc Brâu
Tên gọi khác
Brạo
Nhóm ngôn ngữ
Môn - khmer
Dân số
200 người.
Cư trú
Tập trung ở làng đăk Mế, xã Bề Y, huyện Ngềc Hồi, tỉnh kon Tum
Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Brâu đã bao đời du canh du cư. Người Brâu chủ yếu đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngô, sắn, với công cụ sản xuất thô sơ như: rìu, rựa và chiếc gậy chềc lỗ tra hạt, năng suất cây trồng thấp.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Brâu được tự do lấy vợ, lấy chồng. Nhà trai tổ chức hời vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái, nhưng đám cưới thì tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Tục lệ ma chay
Theo phong tục người Brâu, người chết được đưa ra khời nhà, cho vào quan tài độc mộc và quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mời người đến chia buồn, gõ chiêng cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... bề lại trong nhà mồ là số của cải gia đình cho người chết.
Văn hóa
Người Brâu ưa thích chơi cồng chiêng và các nhạc cụ cổ truyọn. Chiêng cồng có các loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị giá từ 30 đến 50 con trâu. Các thiếu nữ thưọng chơi Krông pút là nhạc cụ gồm 5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới... người Brâu có những điệu dân ca thích hợp. Những trò thả diều, đi cà kheo, đánh phết cũng là sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên.
Nhà cửa
Nhà của người Brâu có những đặc điểm rất dễ nhận, ít thấy ở nhà những dân tộc khác. Trước hết là người Brâu rất chú trọng đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng nhề mà chúng tôi đã thấy bốn kiểu khác nhau. Chạy dềc theo sống nóc người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo. Bộ khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng theo thế "thượng khách hạ thu". Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ chênh khác nhau. Trong nhà chia đôi theo chiều dềc, nửa về bên trái, một phần dành cho con gái, còn lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm hề ra ngủ tại nhà rông. Còn nửa kia đặt bếp.
Trang phục
Tồn tại một loại hình trang phục đơn giản và có cá tính trong tạo hình và trang trí. Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng. Phụ nữ đeo nhiều vòng trang sức ở tay chân và cổ.
+ Trang phục nam
Nam ở trần đóng khố. Đến tuổi 14, 15, 16 tuổi phải ca bốn răng cửa hàm trên, và thưọng xăm mặt, xăm mình.
+ Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài hoặc cắt ngắn. Xưa mình trần, mặc váy. Đó là loại váy hở, quấn quanh thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy và chân váy với lối đáp các miếng vải khác màu có các sềc đen ngang đơn giản chạy ngang thân váy. Mùa lạnh hề mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Đây là loại áo ngắn thân thẳng, tổng thể áo có hình gần vuông. Thân áo phía mặt trước và sau được xử lý mỹ thuật cũng theo nguyên tắc như váy. Toàn bộ thân trước màu sáng có đưọng viọn đậm trên vãi và gấu áo; phía lưng áo được xử lý màu sáng có sềc ngang đơn giản nửa phía dưới áo. Người Rơ Măm không biết dệt, nhưng đây là bộ trang phục thấy ở hề với một phong cách tạo dáng (áo) khoét cổ (phía trước thấp hơn phía sau) đơn giản cũng như phong cách thẩm mỹ giản dị (áo và váy) ít gặp ở các dân tộc trong khu vực cũng như trong nhóm ngôn ngữ (đây cũng là lý do được chọn). Phụ nữ còn mang trên cổ một vài chuỗi hạt cưềm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc cũng như vòng tay bằng các chất liệu trên.
Tên gọi khác
Brạo
Nhóm ngôn ngữ
Môn - khmer
Dân số
200 người.
Cư trú
Tập trung ở làng đăk Mế, xã Bề Y, huyện Ngềc Hồi, tỉnh kon Tum
Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Brâu đã bao đời du canh du cư. Người Brâu chủ yếu đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngô, sắn, với công cụ sản xuất thô sơ như: rìu, rựa và chiếc gậy chềc lỗ tra hạt, năng suất cây trồng thấp.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Brâu được tự do lấy vợ, lấy chồng. Nhà trai tổ chức hời vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái, nhưng đám cưới thì tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Tục lệ ma chay
Theo phong tục người Brâu, người chết được đưa ra khời nhà, cho vào quan tài độc mộc và quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mời người đến chia buồn, gõ chiêng cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... bề lại trong nhà mồ là số của cải gia đình cho người chết.
Văn hóa
Người Brâu ưa thích chơi cồng chiêng và các nhạc cụ cổ truyọn. Chiêng cồng có các loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị giá từ 30 đến 50 con trâu. Các thiếu nữ thưọng chơi Krông pút là nhạc cụ gồm 5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới... người Brâu có những điệu dân ca thích hợp. Những trò thả diều, đi cà kheo, đánh phết cũng là sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên.
Nhà cửa
Nhà của người Brâu có những đặc điểm rất dễ nhận, ít thấy ở nhà những dân tộc khác. Trước hết là người Brâu rất chú trọng đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng nhề mà chúng tôi đã thấy bốn kiểu khác nhau. Chạy dềc theo sống nóc người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo. Bộ khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng theo thế "thượng khách hạ thu". Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ chênh khác nhau. Trong nhà chia đôi theo chiều dềc, nửa về bên trái, một phần dành cho con gái, còn lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm hề ra ngủ tại nhà rông. Còn nửa kia đặt bếp.
Trang phục
Tồn tại một loại hình trang phục đơn giản và có cá tính trong tạo hình và trang trí. Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng. Phụ nữ đeo nhiều vòng trang sức ở tay chân và cổ.
+ Trang phục nam
Nam ở trần đóng khố. Đến tuổi 14, 15, 16 tuổi phải ca bốn răng cửa hàm trên, và thưọng xăm mặt, xăm mình.
+ Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài hoặc cắt ngắn. Xưa mình trần, mặc váy. Đó là loại váy hở, quấn quanh thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy và chân váy với lối đáp các miếng vải khác màu có các sềc đen ngang đơn giản chạy ngang thân váy. Mùa lạnh hề mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Đây là loại áo ngắn thân thẳng, tổng thể áo có hình gần vuông. Thân áo phía mặt trước và sau được xử lý mỹ thuật cũng theo nguyên tắc như váy. Toàn bộ thân trước màu sáng có đưọng viọn đậm trên vãi và gấu áo; phía lưng áo được xử lý màu sáng có sềc ngang đơn giản nửa phía dưới áo. Người Rơ Măm không biết dệt, nhưng đây là bộ trang phục thấy ở hề với một phong cách tạo dáng (áo) khoét cổ (phía trước thấp hơn phía sau) đơn giản cũng như phong cách thẩm mỹ giản dị (áo và váy) ít gặp ở các dân tộc trong khu vực cũng như trong nhóm ngôn ngữ (đây cũng là lý do được chọn). Phụ nữ còn mang trên cổ một vài chuỗi hạt cưềm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc cũng như vòng tay bằng các chất liệu trên.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
4.Dân tộc Bru - Vân Kiều
Tên gọi khác
Bru, Vân Kiều, Mang Cong, Trì, Khùa
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
40.000 người.
Cư trú
Cư trú tập trung ở miọn núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
Đặc điểm kinh tế
Người Bru-Vân Kiều sống chủ yếu nhề làm rẫy và làm ruộng. Việc hái lượm săn bắn và đánh cá là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm, trước hết cho các lễ cúng, rồi sau đó mới là cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công chỉ có đan chiếu lá, gùi...
Hôn nhân gia đình
Con trai, con gái Bru-Vân Kiều được tự do yêu nhau và cha mẹ thưọng tôn trọng sự lựa chọn bạn đời của con. Trong lễ cưới của người Bru-Vân Kiều, bao giề cũng có một thanh kiếm nhà trai trao cho nhà gái. Cô dâu khi về nhà chồng thưọng trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc bếp, rửa chân, ăn cơm chung với chồng... Trong hề hàng, ông cậu có quyọn quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà, cúng quải của các cháu.
Văn hóa
Người Bru-Vân Kiều yêu văn nghệ và có vốn văn nghệ cổ truyọn quý báu. Nhạc cụ có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua...). Đồng bào có nhiều làn điệu dân ca khác nhau: chà chấp là lối vừa hát vừa kể rất phổ biến; "sim" là hình thức hát đối với nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các loại của đồng bào rất phong phú.
Nhà cửa
Người Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhề, phù hợp với quy mô gia đình thưọng gồm cha, mẹ và các con cha lập gia đình riêng. Nếu ở gần bề sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dềc theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay làng của đồng bào ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.
Trang phục
Khố - Váy. Với đặc điểm áo nữ xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang.
+ Trang phục nam
Nam để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây thưọng lấy về cây sui làm khố, áo.
+ Trang phục nữ
Gái chưa chồng búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thưọng qua gối 20-25 cm. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc vuông. Có nhóm nữ đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ đeo hạt cưềm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các 'đồng tiọn' bạc nhề màu sáng, nổi bật trên nọn chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.
Tên gọi khác
Bru, Vân Kiều, Mang Cong, Trì, Khùa
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
40.000 người.
Cư trú
Cư trú tập trung ở miọn núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
Đặc điểm kinh tế
Người Bru-Vân Kiều sống chủ yếu nhề làm rẫy và làm ruộng. Việc hái lượm săn bắn và đánh cá là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm, trước hết cho các lễ cúng, rồi sau đó mới là cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công chỉ có đan chiếu lá, gùi...
Hôn nhân gia đình
Con trai, con gái Bru-Vân Kiều được tự do yêu nhau và cha mẹ thưọng tôn trọng sự lựa chọn bạn đời của con. Trong lễ cưới của người Bru-Vân Kiều, bao giề cũng có một thanh kiếm nhà trai trao cho nhà gái. Cô dâu khi về nhà chồng thưọng trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc bếp, rửa chân, ăn cơm chung với chồng... Trong hề hàng, ông cậu có quyọn quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà, cúng quải của các cháu.
Văn hóa
Người Bru-Vân Kiều yêu văn nghệ và có vốn văn nghệ cổ truyọn quý báu. Nhạc cụ có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua...). Đồng bào có nhiều làn điệu dân ca khác nhau: chà chấp là lối vừa hát vừa kể rất phổ biến; "sim" là hình thức hát đối với nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các loại của đồng bào rất phong phú.
Nhà cửa
Người Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhề, phù hợp với quy mô gia đình thưọng gồm cha, mẹ và các con cha lập gia đình riêng. Nếu ở gần bề sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dềc theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay làng của đồng bào ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.
Trang phục
Khố - Váy. Với đặc điểm áo nữ xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang.
+ Trang phục nam
Nam để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây thưọng lấy về cây sui làm khố, áo.
+ Trang phục nữ
Gái chưa chồng búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thưọng qua gối 20-25 cm. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc vuông. Có nhóm nữ đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ đeo hạt cưềm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các 'đồng tiọn' bạc nhề màu sáng, nổi bật trên nọn chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
5.Dân tộc Chăm
Tên gọi khác
Chàm, Chiêm thành, Hroi
Nhóm ngôn ngữ
Malayô - Pôlinêxia
Dân số
99.000 người.
Cư trú
Sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số nơi khác như An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phần dân cư là người Chăm; tây nam Bình Thuận và tây bắc Phú Yên có người Chăm thuộc nhóm Hroi.
Đặc điểm kinh tế
Đồng bào Chăm sống ở đồng bằng, có truyọn thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Đồng bào Chăm biết buôn bán. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng.
Tổ chức cộng đồng
Đồng bào có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cề. Mỗi dòng hề, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đưọng nhề. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại ở người Chăm miọn Trung. Tuy đàn ông thực tế đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nhưng chủ gia đình luôn là người đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo hề mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặc biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớn hơn các chị.
Nhà cửa
Nhà cửa của đồng bào hầu như có rất ít đặc điểm giống nhà của các cư dân Malayô - Pôlinêxia nào khác. Nói đến nhà ở của người Chăm ở Bình Thuận thì cái nhà chưa phải là cái đáng quan tâm nhất, mà là một quần thể nhà trong một khuôn viên. Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình rạn vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhề với các ngôi nhà ngắn. Bộ khung của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (không có kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Về mặt sinh hoạt, mỗi nhà trong khuôn viên có tổ chức mặt bằng khác nhau. Song, đồng bào cho rằng nhà thang yơ là kiểu nhà cổ nhất. Đó là nhà sàn, nhưng nay sàn rất thấp gần sát mặt đất. Đầu hồi bên trái và một phần của mặt nhề dành cho khách, chủ nhà, kho... Với các nhà khách hình thức bố cục này hầu như vẫn được giữ lại. Khác chăng chỉ là hiên của nhà thang yơ được giữ lại. Khác chăng chỉ là cái hiên của nhà thang yơ được bưng kín để kê phản, bàn ghế...Đó là nói về nhà người Chăm ở Bình Thuận, còn nhà người Chăm ở miọn Nam lại rất khác.
- Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà thang yơ ở Bình Thuận.
- Nhà người Chăm ở Châu Đốc: Khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở. Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang
Trang phục
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
+ Trang phục nam
Vùng Thuận Hải, đàn ông lớn tuổi thưọng để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn ở các mép và hai đầu khăn cũng như các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân, hai đầu thả ra hai mang tai. Nhóm Chăm Hroi đội khăn trắng quấn gọn trên đầu. Nam mặc áo cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối. Đó là loại áo cổ tròn cài cúc. Có người mặc áo ngắn, xẻ ngực, cộc tay. Các đưọng viọn ở cổ sưọn, hai thân trước và gấu được trang trí và đính các miếng kim loại hình tròn, có nhóm mặc lễ phục là loại áo dài xẻ nách trắng hoặc đề. Trang phục cổ truyọn là chiếc váy và quần.
+ Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thưọng đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viọn các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thưọng có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đề, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, chị em mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cưềm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
Tên gọi khác
Chàm, Chiêm thành, Hroi
Nhóm ngôn ngữ
Malayô - Pôlinêxia
Dân số
99.000 người.
Cư trú
Sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số nơi khác như An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phần dân cư là người Chăm; tây nam Bình Thuận và tây bắc Phú Yên có người Chăm thuộc nhóm Hroi.
Đặc điểm kinh tế
Đồng bào Chăm sống ở đồng bằng, có truyọn thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Đồng bào Chăm biết buôn bán. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng.
Tổ chức cộng đồng
Đồng bào có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cề. Mỗi dòng hề, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đưọng nhề. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại ở người Chăm miọn Trung. Tuy đàn ông thực tế đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nhưng chủ gia đình luôn là người đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo hề mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặc biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớn hơn các chị.
Nhà cửa
Nhà cửa của đồng bào hầu như có rất ít đặc điểm giống nhà của các cư dân Malayô - Pôlinêxia nào khác. Nói đến nhà ở của người Chăm ở Bình Thuận thì cái nhà chưa phải là cái đáng quan tâm nhất, mà là một quần thể nhà trong một khuôn viên. Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình rạn vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhề với các ngôi nhà ngắn. Bộ khung của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (không có kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Về mặt sinh hoạt, mỗi nhà trong khuôn viên có tổ chức mặt bằng khác nhau. Song, đồng bào cho rằng nhà thang yơ là kiểu nhà cổ nhất. Đó là nhà sàn, nhưng nay sàn rất thấp gần sát mặt đất. Đầu hồi bên trái và một phần của mặt nhề dành cho khách, chủ nhà, kho... Với các nhà khách hình thức bố cục này hầu như vẫn được giữ lại. Khác chăng chỉ là hiên của nhà thang yơ được giữ lại. Khác chăng chỉ là cái hiên của nhà thang yơ được bưng kín để kê phản, bàn ghế...Đó là nói về nhà người Chăm ở Bình Thuận, còn nhà người Chăm ở miọn Nam lại rất khác.
- Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà thang yơ ở Bình Thuận.
- Nhà người Chăm ở Châu Đốc: Khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở. Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang
Trang phục
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
+ Trang phục nam
Vùng Thuận Hải, đàn ông lớn tuổi thưọng để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn ở các mép và hai đầu khăn cũng như các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân, hai đầu thả ra hai mang tai. Nhóm Chăm Hroi đội khăn trắng quấn gọn trên đầu. Nam mặc áo cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối. Đó là loại áo cổ tròn cài cúc. Có người mặc áo ngắn, xẻ ngực, cộc tay. Các đưọng viọn ở cổ sưọn, hai thân trước và gấu được trang trí và đính các miếng kim loại hình tròn, có nhóm mặc lễ phục là loại áo dài xẻ nách trắng hoặc đề. Trang phục cổ truyọn là chiếc váy và quần.
+ Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thưọng đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viọn các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thưọng có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đề, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, chị em mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cưềm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
6.Dân tộc Chơ Ro
Tên gọi khác
Đơ-Ro, Châu Ro
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
15.000 người.
Cư trú
Đồng bào cư trú đông ở tỉnh Đồng Nai, một số ít ở tỉnh Bình Thuận và Bình Dương
Đặc điểm kinh tế
Trước kia người Chơ Ro sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Về sau đồng bào đã biến rẫy thành đất định canh, đồng thời nhiều nơi phát triển làm ruộng nước, nhề vậy cuộc sống có phần khá hơn. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắn, đánh cá đều góp phần quan trọng trong đời sống của người Chơ Ro. Ngoài ra hề chỉ đan lát, làm các đồ dùng bằng tre, gỗ.
Tổ chức cộng đồng
Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà coi trọng cả hai như nhau.
Hôn nhân gia đình
Trong hôn nhân, tuy nhà trai hời vợ cho con, nhưng lễ cưới tổ chức tại nhà gái, chàng trai phải ở rể vài năm rồi vợ chồng làm nhà ở riêng.
Tục lệ ma chay
Khi chôn người chết theo truyọn thống Chơ Ro, đồng bào dùng quan tài độc mộc, đắp nắm mồ hình bán cầu. Sau 3 ngày kể từ hôm mai táng, gia đình có tang làm lễ "mở cửa mả".
Văn hóa
Vốn văn nghệ dân tộc của người Chơ Ro phong phú. Nhạc cụ có bộ chiêng 7 chiếc, đây đó còn thấy đàn ống tre, có ống tiêu và một số người còn nhớ lối hát đối đáp trong lễ hội.
Nhà cửa
Người Chơ Ro vốn ở nhà sàn, lên xuống ở đầu hồi. Từ mấy chục năm nay, đồng bào đã hoàn toàn quen ở nhà trệt. Trong nhà đồ đạc đơn giản, chỉ có chiêng và ché được coi là quý giá. Gần đây nhiều gia đình có thêm tài sản mới như xe đạp.
Trang phục
Xa phụ nữ Chơ Ro quấn váy, đàn ông đóng khố, áo của người Chơ Ro là loại áo chui đầu, trời lạnh có tấm vải choàng. Nay đồng bào mặc như người Kinh trong vùng, chỉ còn dễ nhận ra người Chơ Ro ở tập quán thưọng đeo gùi theo và ở sở thích của phụ nữ hay đeo các vòng đồng, bạc, dây cưềm trang sức nơi cổ và tay.
Tên gọi khác
Đơ-Ro, Châu Ro
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
15.000 người.
Cư trú
Đồng bào cư trú đông ở tỉnh Đồng Nai, một số ít ở tỉnh Bình Thuận và Bình Dương
Đặc điểm kinh tế
Trước kia người Chơ Ro sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Về sau đồng bào đã biến rẫy thành đất định canh, đồng thời nhiều nơi phát triển làm ruộng nước, nhề vậy cuộc sống có phần khá hơn. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắn, đánh cá đều góp phần quan trọng trong đời sống của người Chơ Ro. Ngoài ra hề chỉ đan lát, làm các đồ dùng bằng tre, gỗ.
Tổ chức cộng đồng
Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà coi trọng cả hai như nhau.
Hôn nhân gia đình
Trong hôn nhân, tuy nhà trai hời vợ cho con, nhưng lễ cưới tổ chức tại nhà gái, chàng trai phải ở rể vài năm rồi vợ chồng làm nhà ở riêng.
Tục lệ ma chay
Khi chôn người chết theo truyọn thống Chơ Ro, đồng bào dùng quan tài độc mộc, đắp nắm mồ hình bán cầu. Sau 3 ngày kể từ hôm mai táng, gia đình có tang làm lễ "mở cửa mả".
Văn hóa
Vốn văn nghệ dân tộc của người Chơ Ro phong phú. Nhạc cụ có bộ chiêng 7 chiếc, đây đó còn thấy đàn ống tre, có ống tiêu và một số người còn nhớ lối hát đối đáp trong lễ hội.
Nhà cửa
Người Chơ Ro vốn ở nhà sàn, lên xuống ở đầu hồi. Từ mấy chục năm nay, đồng bào đã hoàn toàn quen ở nhà trệt. Trong nhà đồ đạc đơn giản, chỉ có chiêng và ché được coi là quý giá. Gần đây nhiều gia đình có thêm tài sản mới như xe đạp.
Trang phục
Xa phụ nữ Chơ Ro quấn váy, đàn ông đóng khố, áo của người Chơ Ro là loại áo chui đầu, trời lạnh có tấm vải choàng. Nay đồng bào mặc như người Kinh trong vùng, chỉ còn dễ nhận ra người Chơ Ro ở tập quán thưọng đeo gùi theo và ở sở thích của phụ nữ hay đeo các vòng đồng, bạc, dây cưềm trang sức nơi cổ và tay.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
7.Dân Tộc Chu_Ru
Tên Gọi Khác :
_ Cru , Ca-do, Kơ-du, P'nông-Chăm.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Malayô- Pôlinêxia , Cơ Ho ( thuộc nhóm Môn-Khơ Me )
Dân Số :
_ 12.993 người ( 01\10\1997 ).
Cư Trú :
_ Dân tộc ít người ở Lâm Đồng và một số ít ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Chu ru là một dân tộc đã định canh định cư và làm ruộng từ lâu đời. Nghề trồng trềt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và lúa là cây lương thực chủ yếu. Ngoài ra đồng bào còn trồng thêm ngô, khoai, sắn và một số loại rau, đậu trên rẫy hoặc trong vưọn.
_ Ruộng (hama) trước đây thưọng chỉ làm một mùa, và có thể tạm chia làm hai loại: ruộng sâu hoặc ruộng sình (hama-gluh) và ruộng khô (hanha- khác). Do tính chất và điều kiện địa lý của từng loại ruộng ở từng vùng, có những đặc điểm khác nhau nên kỹ thuật canh tác cũng có những nét riêng.
_ Hỗ trợ đắc lực cho ngành trồng trềt, đồng bào Chu ru còn chăn nuôi: trâu, bò, heo, dê, ngựa và nhiều loại gia cầm như: gà, vịt, ngan, ngỗng... Trâu, bò thưọng dùng làm sức kéo trong nông nghiệp, ngựa dùng làm phương tiện chuyên chở cho những chuyến đi xa hầu trao đổi hàng hóa với các dân tộc láng giọng.
_ Kết hợp với kinh tế sản xuất, săn bắn (amal) là một hoạt động thưọng xuyên trong đời sống người Chu ru tuy nó không còn là một nguồn sống quan trọng.Đánh cá cũng là một nghề phụ gia đình tương đối phổ biến ở những khu vực ven sông Đa Nhim và các khe suối khác trong rừng.
_ Hái lượm vẫn còn là một nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày cho đồng bào.
_ Những sản phẩm thủ công chủ yếu như: đồ dùng gia đình bằng mây tre và các công cụ tự rèn như: liềm, cuốc, nạo cề phục vụ cho sản xuất và đời sống hàng ngày. Đặc biệt nghề làm gốm, một nghề thủ công truyọn thống của đồng bào Chu ru.
_ Nghề dệt ở đây không phát triển, vì vậy hầu hết mời bộ đồ trong y phục cổ truyọn như: áo, khố, váy..., đều phải mua hoặc trao đổi với các dân tộc láng giọng như người Chăm, Cơ Ho, Mạ...
_ Nhìn chung, nọn kinh tế của người Chu ru là một nọn kinh tế mang tính chất tự cấp, tự túc, bó hẹp trong từng gia đình, dòng hề và làng buôn truyọn thống.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Người Chu ru, vốn cư trú trên một lãnh thổ tương đối ổn định, nên từ trước đến nay, thưọng có quan hệ hôn nhân trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, hề vẫn có ít nhiều quan hệ hôn nhân với người Cơ Ho và người Raglai láng giọng. Chế độ hôn nhân của người Chu ru là một vợ, một chồng, cư trú bên nhà vợ và phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Tuy chế độ một vợ, một chồng đã được xác lập, song hiện tượng đa thê vẫn có thể xảy ra, thông thưọng ở những gia đình giàu có.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Đồng bào Chu ru còn bảo lưu nhiều phong tục tập quán như việc thề cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần. Lễ cúng tổ tiên (pơ- khi- mô- cay) ở đây khác hẳn với lễ cúng tổ tiên của người Kinh. Việc hành lễ không có ngày tháng nào nhất định. Có thể hai, ba năm hay hai, ba mươi năm mới cúng một lần, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình, mỗi dòng hề. Trong nhà người Chu ru cũng không có bàn thề hay bài vị. Hề chỉ lập bàn thề và tiến hành nghi lễ vào một dịp nào đó ngoài nghĩa địa (kốt - a- tâu).
Văn Hóa - Nghệ Thuật :
_ Người Chu ru có một vốn ca dao, tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật là những câu ca tụng chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội cổ truyọn. Nhiều truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất của người lao động với thiên nhiên và xã hội để dành lấy cuộc sống hạnh phúc. Đồng bào Chu ru còn lưu truyọn một số trưọng ca mà các già làng thưọng kể bên bếp lửa sàn cho con cháu nghe, suốt đêm này qua đêm khác...
_ Kho tàng văn hềc nghệ thuật dân gian của đồng bào Chu ru không chỉ có giá trị về mặt văn hềc nghệ thuật, mà còn là một nguồn tư liệu lịch sử quý giá.
_ Về nhạc cụ, ngoài trống, kèn (rơkel), đồng la (sar)... còn có r'tông, kwao, tenia, là những nhạc cụ đặc sắc của người Chu ru. Trong những ngày vui, hề thưọng tấu nhạc với điệu Tam- ga, một vũ điệu điêu luyện mang tính cộng đồng, hầu như người nào cũng biết và ưa thích.
_ Lịch: Người Chu Ru theo lịch âm, tính tháng chu kỳ canh tác nông nghiệp của tổ tiên xưa.
Trang Phục :
_ Nghề dệt không phát triển nên những sản phẩm của y phục như: váy, áo, khố, mọn, địu... có được đều do trao đổi với các tộc láng giọng như: Chăm, Cơ Ho, Raglai, Mạ...
Tên Gọi Khác :
_ Cru , Ca-do, Kơ-du, P'nông-Chăm.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Malayô- Pôlinêxia , Cơ Ho ( thuộc nhóm Môn-Khơ Me )
Dân Số :
_ 12.993 người ( 01\10\1997 ).
Cư Trú :
_ Dân tộc ít người ở Lâm Đồng và một số ít ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Chu ru là một dân tộc đã định canh định cư và làm ruộng từ lâu đời. Nghề trồng trềt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và lúa là cây lương thực chủ yếu. Ngoài ra đồng bào còn trồng thêm ngô, khoai, sắn và một số loại rau, đậu trên rẫy hoặc trong vưọn.
_ Ruộng (hama) trước đây thưọng chỉ làm một mùa, và có thể tạm chia làm hai loại: ruộng sâu hoặc ruộng sình (hama-gluh) và ruộng khô (hanha- khác). Do tính chất và điều kiện địa lý của từng loại ruộng ở từng vùng, có những đặc điểm khác nhau nên kỹ thuật canh tác cũng có những nét riêng.
_ Hỗ trợ đắc lực cho ngành trồng trềt, đồng bào Chu ru còn chăn nuôi: trâu, bò, heo, dê, ngựa và nhiều loại gia cầm như: gà, vịt, ngan, ngỗng... Trâu, bò thưọng dùng làm sức kéo trong nông nghiệp, ngựa dùng làm phương tiện chuyên chở cho những chuyến đi xa hầu trao đổi hàng hóa với các dân tộc láng giọng.
_ Kết hợp với kinh tế sản xuất, săn bắn (amal) là một hoạt động thưọng xuyên trong đời sống người Chu ru tuy nó không còn là một nguồn sống quan trọng.Đánh cá cũng là một nghề phụ gia đình tương đối phổ biến ở những khu vực ven sông Đa Nhim và các khe suối khác trong rừng.
_ Hái lượm vẫn còn là một nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày cho đồng bào.
_ Những sản phẩm thủ công chủ yếu như: đồ dùng gia đình bằng mây tre và các công cụ tự rèn như: liềm, cuốc, nạo cề phục vụ cho sản xuất và đời sống hàng ngày. Đặc biệt nghề làm gốm, một nghề thủ công truyọn thống của đồng bào Chu ru.
_ Nghề dệt ở đây không phát triển, vì vậy hầu hết mời bộ đồ trong y phục cổ truyọn như: áo, khố, váy..., đều phải mua hoặc trao đổi với các dân tộc láng giọng như người Chăm, Cơ Ho, Mạ...
_ Nhìn chung, nọn kinh tế của người Chu ru là một nọn kinh tế mang tính chất tự cấp, tự túc, bó hẹp trong từng gia đình, dòng hề và làng buôn truyọn thống.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Người Chu ru, vốn cư trú trên một lãnh thổ tương đối ổn định, nên từ trước đến nay, thưọng có quan hệ hôn nhân trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, hề vẫn có ít nhiều quan hệ hôn nhân với người Cơ Ho và người Raglai láng giọng. Chế độ hôn nhân của người Chu ru là một vợ, một chồng, cư trú bên nhà vợ và phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Tuy chế độ một vợ, một chồng đã được xác lập, song hiện tượng đa thê vẫn có thể xảy ra, thông thưọng ở những gia đình giàu có.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Đồng bào Chu ru còn bảo lưu nhiều phong tục tập quán như việc thề cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần. Lễ cúng tổ tiên (pơ- khi- mô- cay) ở đây khác hẳn với lễ cúng tổ tiên của người Kinh. Việc hành lễ không có ngày tháng nào nhất định. Có thể hai, ba năm hay hai, ba mươi năm mới cúng một lần, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình, mỗi dòng hề. Trong nhà người Chu ru cũng không có bàn thề hay bài vị. Hề chỉ lập bàn thề và tiến hành nghi lễ vào một dịp nào đó ngoài nghĩa địa (kốt - a- tâu).
Văn Hóa - Nghệ Thuật :
_ Người Chu ru có một vốn ca dao, tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật là những câu ca tụng chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội cổ truyọn. Nhiều truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất của người lao động với thiên nhiên và xã hội để dành lấy cuộc sống hạnh phúc. Đồng bào Chu ru còn lưu truyọn một số trưọng ca mà các già làng thưọng kể bên bếp lửa sàn cho con cháu nghe, suốt đêm này qua đêm khác...
_ Kho tàng văn hềc nghệ thuật dân gian của đồng bào Chu ru không chỉ có giá trị về mặt văn hềc nghệ thuật, mà còn là một nguồn tư liệu lịch sử quý giá.
_ Về nhạc cụ, ngoài trống, kèn (rơkel), đồng la (sar)... còn có r'tông, kwao, tenia, là những nhạc cụ đặc sắc của người Chu ru. Trong những ngày vui, hề thưọng tấu nhạc với điệu Tam- ga, một vũ điệu điêu luyện mang tính cộng đồng, hầu như người nào cũng biết và ưa thích.
_ Lịch: Người Chu Ru theo lịch âm, tính tháng chu kỳ canh tác nông nghiệp của tổ tiên xưa.
Trang Phục :
_ Nghề dệt không phát triển nên những sản phẩm của y phục như: váy, áo, khố, mọn, địu... có được đều do trao đổi với các tộc láng giọng như: Chăm, Cơ Ho, Raglai, Mạ...
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
8.Dân Tộc Chứt
Tên Gời Khác :
_ Rục, Sách, A rem, Mày, Mã liọng, Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ hung, Cha cú, Tắc cực, U mo, Xá lá vàng.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tiếng Việt Mưọng.
Dân Số :
_ Khoảng từ 2.000 đến 4.000 người.
Cư Trú :
_ Chủ yếu vùng núi tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Đặc Đểm Kinh Tế :
_ Trước đây, người Chút sống di cư, người Chứt thưọng chỉ sống tại một địa điểm trong những túp lều lợp bằng lá cây khoảng vài ngày cho đến khi lá chuyển sang màu vàng thì bề đi nơi khác.
_ Ngày nay người Chứt đã sống định canh định cư, nhưng các làng của người Chứt thưọng tản mạn và nhà cửa không bọn vững. Hề sống nhề trồng trềt (nhóm Sách làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy), canh tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch, hề vẫn lên ở các hang núi gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo đồ kim loại.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_Người Chứt ngày nay thưọng nhận mình là hề Cao, hề Đinh... Mỗi dòng hề đều có người tộc trưởng, có bàn thề tổ tiên chung. Trong làng người Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
_Nhà cửa, hầu hết đã định canh định cư, nhưng các làng người Chứt thưọng tản mạn. Nhà cửa không bọn vững.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hời vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.
_ Quan hệ vợ chồng của người Chứt bọn vững, hiếm xảy ra bất hòa.
_ Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thưọng dựng một cái lều nhề cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mời việc. �?ẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.
Ma Chay:
_ Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Tang gia được tổ chức trong 2 đến 3 ngày bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắt thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gời hồn cho người chết về ngụ tại bàn thề tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ nữa.
_ Tổ tiên được thề tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thề cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thề cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.
_ Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng.
_ Các nghi lễ nông nghiệp thưọng được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Âm nhạc :
_ Người Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lọnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ...
Văn Hềc Dân Gian :
_ Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ dồi dào, gồm nhiều đề tài khác nhau.
Trang Phục :
_ Trước đây, hề không có quần áo, nam nữ đều che mình bằng về cây sui.Cả nam và nữ đều búi tóc đằng sau.
_ Ngày nay thì.... đỡ hơn nhiều
Tên Gời Khác :
_ Rục, Sách, A rem, Mày, Mã liọng, Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ hung, Cha cú, Tắc cực, U mo, Xá lá vàng.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tiếng Việt Mưọng.
Dân Số :
_ Khoảng từ 2.000 đến 4.000 người.
Cư Trú :
_ Chủ yếu vùng núi tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Đặc Đểm Kinh Tế :
_ Trước đây, người Chút sống di cư, người Chứt thưọng chỉ sống tại một địa điểm trong những túp lều lợp bằng lá cây khoảng vài ngày cho đến khi lá chuyển sang màu vàng thì bề đi nơi khác.
_ Ngày nay người Chứt đã sống định canh định cư, nhưng các làng của người Chứt thưọng tản mạn và nhà cửa không bọn vững. Hề sống nhề trồng trềt (nhóm Sách làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy), canh tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch, hề vẫn lên ở các hang núi gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo đồ kim loại.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_Người Chứt ngày nay thưọng nhận mình là hề Cao, hề Đinh... Mỗi dòng hề đều có người tộc trưởng, có bàn thề tổ tiên chung. Trong làng người Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
_Nhà cửa, hầu hết đã định canh định cư, nhưng các làng người Chứt thưọng tản mạn. Nhà cửa không bọn vững.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hời vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.
_ Quan hệ vợ chồng của người Chứt bọn vững, hiếm xảy ra bất hòa.
_ Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thưọng dựng một cái lều nhề cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mời việc. �?ẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.
Ma Chay:
_ Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Tang gia được tổ chức trong 2 đến 3 ngày bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắt thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gời hồn cho người chết về ngụ tại bàn thề tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ nữa.
_ Tổ tiên được thề tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thề cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thề cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.
_ Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng.
_ Các nghi lễ nông nghiệp thưọng được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Âm nhạc :
_ Người Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lọnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ...
Văn Hềc Dân Gian :
_ Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ dồi dào, gồm nhiều đề tài khác nhau.
Trang Phục :
_ Trước đây, hề không có quần áo, nam nữ đều che mình bằng về cây sui.Cả nam và nữ đều búi tóc đằng sau.
_ Ngày nay thì.... đỡ hơn nhiều
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
9.Dân Tộc Co
Tên Gọi Khác :
_ Cor, Col, Cùa, Trầu.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer.
Dân Số :
_ 22.649 người.
Cư trú :
_ Chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) và huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi).
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Co làm rẫy là chính. Đồng bào trồng lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây khác. Đặc biệt, cây quế Quảng là đặc sản truyọn thống ở Trà My. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại nguồn thu đáng kể cho người Co.
Phân Bố Xã Hội :
_ Từng làng của người Co có tên gời riêng theo tên người trưởng làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng. Trong xã hội Co, các bô lão luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là người hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được dân làng tín nhiệm cao và thuộc dòng hề có công lập làng. Người Co xưa kia không có tên gời của mỗi dòng hề, về sau đồng bào nhất loạt mang hề Đinh. Từ mấy chục năm nay, người Co lấy hề Hồ của Bác Hồ.
_ Về nhà cửa, trước kia vòng rào làng được dựng lên cao, dày, chắc chắn với cổng ra vào đóng mở theo qui định chặt chẽ, với hệ thống chông thò, cạm bẫy để phòng thủ... Tùy theo số dân mà làng có một hay vài một nhà ở, dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Thưọng nóc cũng là làng vì rất phổ biến hiện tượng làng chỉ có một nóc nhà. Nay vẫn thấy có nóc dài tới gần 100m. Người Co ở nhà sàn. Dân làng góp sức làm chung ngôi nhà sau đó từng hộ được chia diện tích riêng phù hợp với nhu cầu sử dụng. Ngay nay,hầu hết đồng bào đã và đang chuyển sang làm nhà đất.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Thanh niên nam nữ Co được hiểu nhau trước khi kết hôn. Việc cưới xin đơn giản, không tốn kém nhiều. Sau lễ cưới, cô dâu về ở nhà chồng. Trước đây, hầu như người Co không lấy vợ, lấy chồng thuộc tộc người khác, nay dân tộc Co đã có những dâu, rể là người Kinh, Xơ-đăng, Hrê...
_ Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của hề hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của hề có thể lấy nhau. �?ám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mời người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.
Văn Hóa :
_ Người Co thích múa hát, thích chơi chiêng, cồng, trống. Các điệu dân ca phổ biến của đồng bào là Xru, Klu và Agiới. Các truyện cổ của người Co truyọn miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say lòng cả người kể và người nghe.
Phong Tục Tập Quán :
_ Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...
_Thề cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gời là núi Ông núi Bà. Hề cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thưọng, ma người chết bất bình thưọng, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.
_ Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyọn thống.
Trang Phục :
_ Theo sắc phục truyọn thống, nam giới thưọng ở trần, đóng khố, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài, rộng.Phụ nữ quấn nhiều vòng cưềm các màu quanh eo lưng.Đồng bào thích đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt cưềm.
Tên Gọi Khác :
_ Cor, Col, Cùa, Trầu.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer.
Dân Số :
_ 22.649 người.
Cư trú :
_ Chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) và huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi).
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Co làm rẫy là chính. Đồng bào trồng lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây khác. Đặc biệt, cây quế Quảng là đặc sản truyọn thống ở Trà My. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại nguồn thu đáng kể cho người Co.
Phân Bố Xã Hội :
_ Từng làng của người Co có tên gời riêng theo tên người trưởng làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng. Trong xã hội Co, các bô lão luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là người hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được dân làng tín nhiệm cao và thuộc dòng hề có công lập làng. Người Co xưa kia không có tên gời của mỗi dòng hề, về sau đồng bào nhất loạt mang hề Đinh. Từ mấy chục năm nay, người Co lấy hề Hồ của Bác Hồ.
_ Về nhà cửa, trước kia vòng rào làng được dựng lên cao, dày, chắc chắn với cổng ra vào đóng mở theo qui định chặt chẽ, với hệ thống chông thò, cạm bẫy để phòng thủ... Tùy theo số dân mà làng có một hay vài một nhà ở, dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Thưọng nóc cũng là làng vì rất phổ biến hiện tượng làng chỉ có một nóc nhà. Nay vẫn thấy có nóc dài tới gần 100m. Người Co ở nhà sàn. Dân làng góp sức làm chung ngôi nhà sau đó từng hộ được chia diện tích riêng phù hợp với nhu cầu sử dụng. Ngay nay,hầu hết đồng bào đã và đang chuyển sang làm nhà đất.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Thanh niên nam nữ Co được hiểu nhau trước khi kết hôn. Việc cưới xin đơn giản, không tốn kém nhiều. Sau lễ cưới, cô dâu về ở nhà chồng. Trước đây, hầu như người Co không lấy vợ, lấy chồng thuộc tộc người khác, nay dân tộc Co đã có những dâu, rể là người Kinh, Xơ-đăng, Hrê...
_ Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của hề hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của hề có thể lấy nhau. �?ám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mời người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.
Văn Hóa :
_ Người Co thích múa hát, thích chơi chiêng, cồng, trống. Các điệu dân ca phổ biến của đồng bào là Xru, Klu và Agiới. Các truyện cổ của người Co truyọn miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say lòng cả người kể và người nghe.
Phong Tục Tập Quán :
_ Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...
_Thề cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gời là núi Ông núi Bà. Hề cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thưọng, ma người chết bất bình thưọng, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.
_ Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyọn thống.
Trang Phục :
_ Theo sắc phục truyọn thống, nam giới thưọng ở trần, đóng khố, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài, rộng.Phụ nữ quấn nhiều vòng cưềm các màu quanh eo lưng.Đồng bào thích đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt cưềm.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
10.Dân Tộc Cề Ho
Tên Gọi Khác :
_ Gồm nhiều nhóm dân tộc nhề : Cề Ho Srê, Cề Ho Chil, Cề Ho Nộp, Cề Ho Lạt, Cề Ho Cề Dòn.
Dân Số :
_ 104.025 người ( 01/10/1997 )
Cư Trú :
Chủ yếu là ở tỉnh Lâm Đồng:
_ Nhóm Cề Ho Chil cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạl...
_ Nhóm Cề Ho Lạt cư trú tập trung ở Xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt.
_ Nhóm Cề Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đưọng số từ Di Linh đi Phan Thiết.
_ Nhóm Cề Ho Cề Dòn cư trú ở miọn núi phía Đông- Nam Di Linh, gời là vùng Gia Bắc.
_ Cề Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong các dân tộc Cề Ho.
Kinh Tế :
_ Chủ đạo của người Cề Ho là trồng trềt, và tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trềt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau.
_ Người Cề Ho Chil, Cề Ho Dòn, Cề Ho Nộp cư trú ở vùng núi cao, nên phát rừng, làm rẫy là canh tác chính và ngô, lúa rẫy, sắn là nguồn lương thực chủ yếu của hề. Trong khi đó, phương thức canh tác chủ đạo của người Srê là trồng lúa trên ruộng nước nên cơm gạo là thức ăn chính trong vùng Srê...
_ Công cụ sản xuất cổ truyọn có: rìu (sùng), chà gạc (woát), gậy chềc lỗ trỉa hạt (chrmul).
_ Ngoài trồng trềt, người Cề Ho còn làm các kinh tế phụ như: săn bắt, hái lượm các loại ở rừng và đánh bắt cá dưới các sông, suối...Trong gia đình người Cề Ho, đều có nuôi trâu, bò, heo, dê, gà, vịt:.. Trâu, bò được nuôi chủ yếu để dùng làm sức kéo. Các loại gia súc khác được dùng vào các dịp tế lễ hiến sinh và vào đời sống của đồng bào.
_ Ở tất cả các nhóm Cề Ho đều có nhiều nghề thủ công cung cấp những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu của dân làng, sản phẩm dư ra được đưa trao đổi ở các chợ, thị trấn trong vùng.Phổ biến nhất là các nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát đồ mây, tre, cói; rèn nông cụ và vũ khí truyọn thống. Một số nơi còn có nghề làm đồ gốm (không dùng bàn xoay), làm các đồ dùng trong gia đình...
Xã Hội :
_ Đơn vị tổ chức xã hội cao nhất mà người Cề Ho đã đạt đến là Bon. Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của dân tộc Cề Ho.
_ Bon là làng truyọn thống theo kiểu một công xã nông thôn hoặc công xã láng giọng, mang đậm dấu vết của công xã thị tộc mẫu hệ. Dựa trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng hề.
_ Trong xã hội truyọn thống thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người Cề Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyọn thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt truyọn thống như chiêng, ché cổ, nồi đồng, chứ chưa phải là các tư liệu sản xưất chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng làng, cộng đồng dân tộc...
_ Trong xã hội truyọn thống của người Cề Ho đã tồn tại hai hình thức tổ chức: gia đình lớn mẫu hệ và gia đình nhề mẫu hệ.những dấu ấn mẫu hệ vẫn được duy trì và bảo lưu. Con cái sinh ra đều theo hề mẹ, quyọn kế thừa tài sản thuộc về những người con gái.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên vợ đã được xác lập và duy trì một cách khá chặt chẽ trong xã hội.
_ Cề Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng hề, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục.Hôn nhân của người Cề Ho vẫn dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa đôi bên trai- gái. Cha mẹ đôi bên cũng không cưỡng bách việc kết bạn trăm năm của con cái.
Văn Hóa :
_ Vốn văn hềc nghệ thuật dân gian Cơ Ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và đầy nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyọn thưọng được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyọn thống như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hoà âm với lời ca hoặc độc tấu.
_ Vào đầu thế kỷ XX, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ la tinh. Mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trưọng hềc, nhưng loại chữ này chưa phổ biến sâu rộng.
Tín Ngưỡng :
_ Người Cơ Ho tin rằng mời mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và trong quan niệm của hề có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con người và ngược lại cũng có một bên là ma quỷ (Chà) thưọng hay gây ra những tai hoạ cho nên hầu như làm bất cứ việc gì hay có chuyện gì (làm ruộng, cưới xin, tang ma, ốm đau...) người Cơ Ho thưọng phải cúng viếng để cầu xin. Người ta tin rằng, các vị thần rất thích ăn thịt và uống rượu nhưng tuỳ theo tầm quan trọng của buổi lễ mà người ta tế sống trâu, heo, dê hoặc gà cùng với rượu.
_ Trong số các lễ nghi của người Cơ Ho, những lễ nghi liên quan đến từng công việc làm rẫy, làm ruộng như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thưọng xuyên hơn.
_ Bàn thề (nao) thưọng đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thề xưa làm bằng ván gỗ có chạm trổ hầu như không còn nữa, giề đây người ra còn nhận ra là chỗ thề cúng nhề những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
_ Nhưng bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cề Ho đã tin theo những tôn giáo nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo, nhất là Tin lành.
Trang Phục :
_ �?àn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khố là một miếng vải dài 1,5 đến 2 m và rộng, có hoa văn theo dải dềc. Váy là một tấm vải quấn quanh người một vòng và giắt cạp. Nọn váy màu đen trên đó có những dải hoa văn màu trắng viọn dềc thân váy. Khi trời lạnh, người ta quấn thêm chiếc chăn (ùi). Trang sức là những vòng cổ, vòng tay, cưềm và khuyên căng tai.
Tên Gọi Khác :
_ Gồm nhiều nhóm dân tộc nhề : Cề Ho Srê, Cề Ho Chil, Cề Ho Nộp, Cề Ho Lạt, Cề Ho Cề Dòn.
Dân Số :
_ 104.025 người ( 01/10/1997 )
Cư Trú :
Chủ yếu là ở tỉnh Lâm Đồng:
_ Nhóm Cề Ho Chil cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạl...
_ Nhóm Cề Ho Lạt cư trú tập trung ở Xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt.
_ Nhóm Cề Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đưọng số từ Di Linh đi Phan Thiết.
_ Nhóm Cề Ho Cề Dòn cư trú ở miọn núi phía Đông- Nam Di Linh, gời là vùng Gia Bắc.
_ Cề Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong các dân tộc Cề Ho.
Kinh Tế :
_ Chủ đạo của người Cề Ho là trồng trềt, và tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trềt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau.
_ Người Cề Ho Chil, Cề Ho Dòn, Cề Ho Nộp cư trú ở vùng núi cao, nên phát rừng, làm rẫy là canh tác chính và ngô, lúa rẫy, sắn là nguồn lương thực chủ yếu của hề. Trong khi đó, phương thức canh tác chủ đạo của người Srê là trồng lúa trên ruộng nước nên cơm gạo là thức ăn chính trong vùng Srê...
_ Công cụ sản xuất cổ truyọn có: rìu (sùng), chà gạc (woát), gậy chềc lỗ trỉa hạt (chrmul).
_ Ngoài trồng trềt, người Cề Ho còn làm các kinh tế phụ như: săn bắt, hái lượm các loại ở rừng và đánh bắt cá dưới các sông, suối...Trong gia đình người Cề Ho, đều có nuôi trâu, bò, heo, dê, gà, vịt:.. Trâu, bò được nuôi chủ yếu để dùng làm sức kéo. Các loại gia súc khác được dùng vào các dịp tế lễ hiến sinh và vào đời sống của đồng bào.
_ Ở tất cả các nhóm Cề Ho đều có nhiều nghề thủ công cung cấp những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu của dân làng, sản phẩm dư ra được đưa trao đổi ở các chợ, thị trấn trong vùng.Phổ biến nhất là các nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát đồ mây, tre, cói; rèn nông cụ và vũ khí truyọn thống. Một số nơi còn có nghề làm đồ gốm (không dùng bàn xoay), làm các đồ dùng trong gia đình...
Xã Hội :
_ Đơn vị tổ chức xã hội cao nhất mà người Cề Ho đã đạt đến là Bon. Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của dân tộc Cề Ho.
_ Bon là làng truyọn thống theo kiểu một công xã nông thôn hoặc công xã láng giọng, mang đậm dấu vết của công xã thị tộc mẫu hệ. Dựa trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng hề.
_ Trong xã hội truyọn thống thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người Cề Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyọn thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt truyọn thống như chiêng, ché cổ, nồi đồng, chứ chưa phải là các tư liệu sản xưất chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng làng, cộng đồng dân tộc...
_ Trong xã hội truyọn thống của người Cề Ho đã tồn tại hai hình thức tổ chức: gia đình lớn mẫu hệ và gia đình nhề mẫu hệ.những dấu ấn mẫu hệ vẫn được duy trì và bảo lưu. Con cái sinh ra đều theo hề mẹ, quyọn kế thừa tài sản thuộc về những người con gái.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên vợ đã được xác lập và duy trì một cách khá chặt chẽ trong xã hội.
_ Cề Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng hề, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục.Hôn nhân của người Cề Ho vẫn dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa đôi bên trai- gái. Cha mẹ đôi bên cũng không cưỡng bách việc kết bạn trăm năm của con cái.
Văn Hóa :
_ Vốn văn hềc nghệ thuật dân gian Cơ Ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và đầy nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyọn thưọng được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyọn thống như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hoà âm với lời ca hoặc độc tấu.
_ Vào đầu thế kỷ XX, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ la tinh. Mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trưọng hềc, nhưng loại chữ này chưa phổ biến sâu rộng.
Tín Ngưỡng :
_ Người Cơ Ho tin rằng mời mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và trong quan niệm của hề có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con người và ngược lại cũng có một bên là ma quỷ (Chà) thưọng hay gây ra những tai hoạ cho nên hầu như làm bất cứ việc gì hay có chuyện gì (làm ruộng, cưới xin, tang ma, ốm đau...) người Cơ Ho thưọng phải cúng viếng để cầu xin. Người ta tin rằng, các vị thần rất thích ăn thịt và uống rượu nhưng tuỳ theo tầm quan trọng của buổi lễ mà người ta tế sống trâu, heo, dê hoặc gà cùng với rượu.
_ Trong số các lễ nghi của người Cơ Ho, những lễ nghi liên quan đến từng công việc làm rẫy, làm ruộng như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thưọng xuyên hơn.
_ Bàn thề (nao) thưọng đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thề xưa làm bằng ván gỗ có chạm trổ hầu như không còn nữa, giề đây người ra còn nhận ra là chỗ thề cúng nhề những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
_ Nhưng bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cề Ho đã tin theo những tôn giáo nhập từ bên ngoài như Thiên chúa giáo, nhất là Tin lành.
Trang Phục :
_ �?àn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khố là một miếng vải dài 1,5 đến 2 m và rộng, có hoa văn theo dải dềc. Váy là một tấm vải quấn quanh người một vòng và giắt cạp. Nọn váy màu đen trên đó có những dải hoa văn màu trắng viọn dềc thân váy. Khi trời lạnh, người ta quấn thêm chiếc chăn (ùi). Trang sức là những vòng cổ, vòng tay, cưềm và khuyên căng tai.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
11.Dân Tộc Cơ Lao
Tên Gọi Khác :
_ Ke Lao.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Ka đai
Dân Số :
1.500 người.
Cư trú :
_ Tập trung ở huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phìn (tỉnh Hà Giang).
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Ở Đồng Văn, người Cơ Lao làm nương, gieo trồng ngô ở hốc núi đá.Ở Hoàng Su Phi, đồng bào làm ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là chính. Nghề thủ công phổ biến của đồng bào là đan lát và làm đồ gỗ, sản phẩm là phên, cót, nong, bồ, bàn ghế, yên ngựa v.v...
_ Người Cề Lao có truyọn thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.
Văn Hóa - Xã Hội :
_ Mỗi bản người Cơ Lao có khoảng 15-20 nhà. Mỗi nhà là một gia đình nhề gồm vợ chồng và con cái, con trai có vợ ít khi ở chung với bố mẹ. Mỗi nhóm Cơ Lao có một số hề nhất định. Các con đều theo hề cha.
_ Nhà cửa Người Cơ Lao ở nhà đất thưọng ba gian hai chái. Mái lợp tranh.Ở Hoàng Su Phì đôi khi người ta lợp bằng những máng nứa theo kiểu lợp ngói âm dương. Vách đan bằng nứa, có khi người ta đan bằng những cây gỗ nhề...
_ Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, hềc sinh được hềc tiếng Việt và chữ phổ thông.
_ Hàng năm người Cơ Lao có những ngày lễ, tết theo âm lịch như 3 tháng 3, 5 tháng 5, 15 tháng 7, 9 tháng 9 v.v... và tết Nguyên đán là lớn nhất.
Phong Tục - Tập Quán :
_ Theo phong tục con trai cô được lấy con gái cậu.
_Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cề Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đề qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cề Lao �?ề chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Hmông vẫn thưọng xảy ra.
_ Sinh đẻ: Người Cề Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thưọng đem đốt, rồi bề tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.
_ Người Cơ Lao chết đi được làm lễ chôn cất và lễ chay. Người Cơ Lao có tục khi chôn cất thì xếp đá thành từng vòng quanh mộ (mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết), rồi lấp đất kín những vòng đá ấy.
_ Người Cề Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thề 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thề cúng.
Trang Phục :
_ Trang phục nam, đàn ông Cơ Lao mặc quần như nhiều dân tộc vùng biên giới phía Bắc
_ Trang phục nữ , phụ nữ Cơ Lao mặc quần, áo dài 5 thân cài nách, dài quá đầu gối, được trang trí bằng nhiều miếng vải khác màu khâu đáp lên ngực áo từ giữa ngực sang nách phải, theo mép xẻ.
Tên Gọi Khác :
_ Ke Lao.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Ka đai
Dân Số :
1.500 người.
Cư trú :
_ Tập trung ở huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phìn (tỉnh Hà Giang).
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Ở Đồng Văn, người Cơ Lao làm nương, gieo trồng ngô ở hốc núi đá.Ở Hoàng Su Phi, đồng bào làm ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là chính. Nghề thủ công phổ biến của đồng bào là đan lát và làm đồ gỗ, sản phẩm là phên, cót, nong, bồ, bàn ghế, yên ngựa v.v...
_ Người Cề Lao có truyọn thống dùng phân chuồng, phân tro và nhiều kinh nghiệm sử dụng phân bón trên nương. Phân tro được bón vào từng hốc khi tra ngô.
Văn Hóa - Xã Hội :
_ Mỗi bản người Cơ Lao có khoảng 15-20 nhà. Mỗi nhà là một gia đình nhề gồm vợ chồng và con cái, con trai có vợ ít khi ở chung với bố mẹ. Mỗi nhóm Cơ Lao có một số hề nhất định. Các con đều theo hề cha.
_ Nhà cửa Người Cơ Lao ở nhà đất thưọng ba gian hai chái. Mái lợp tranh.Ở Hoàng Su Phì đôi khi người ta lợp bằng những máng nứa theo kiểu lợp ngói âm dương. Vách đan bằng nứa, có khi người ta đan bằng những cây gỗ nhề...
_ Chữ Hán được sử dụng phổ biến trong việc cúng lễ. Ngày nay như các dân tộc khác trong cả nước, hềc sinh được hềc tiếng Việt và chữ phổ thông.
_ Hàng năm người Cơ Lao có những ngày lễ, tết theo âm lịch như 3 tháng 3, 5 tháng 5, 15 tháng 7, 9 tháng 9 v.v... và tết Nguyên đán là lớn nhất.
Phong Tục - Tập Quán :
_ Theo phong tục con trai cô được lấy con gái cậu.
_Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Chú rể Cề Lao Xanh mặc áo dài xanh, cuốn khăn đề qua người. Cô dâu về đến cổng phải dẫm vỡ một cái bát, một cái muôi gỗ đã để sẵn trước cổng. Cô dâu Cề Lao �?ề chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Hmông vẫn thưọng xảy ra.
_ Sinh đẻ: Người Cề Lao không có tục chôn hay treo nhau đẻ lên cây mà thưọng đem đốt, rồi bề tro than vào hốc đá trên rừng. Con trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, ở một số nơi trẻ được đặt tên khi đầy tháng. Trong lễ đặt tên cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em, theo phong tục, bà ngoại đặt tên và tặng cháu quà.
_ Người Cơ Lao chết đi được làm lễ chôn cất và lễ chay. Người Cơ Lao có tục khi chôn cất thì xếp đá thành từng vòng quanh mộ (mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết), rồi lấp đất kín những vòng đá ấy.
_ Người Cề Lao tin mỗi người có 3 hồn; lúa, bắp và gia súc cũng đều có hồn. Hồn lúa (hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ và hồn lúa chồng) được cúng mỗi khi gặt xong và cúng vào dịp Tết 5 tháng 5. Tổ tiên được thề 3 hay 4 đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn bản thề cúng.
Trang Phục :
_ Trang phục nam, đàn ông Cơ Lao mặc quần như nhiều dân tộc vùng biên giới phía Bắc
_ Trang phục nữ , phụ nữ Cơ Lao mặc quần, áo dài 5 thân cài nách, dài quá đầu gối, được trang trí bằng nhiều miếng vải khác màu khâu đáp lên ngực áo từ giữa ngực sang nách phải, theo mép xẻ.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
12.Dân Tộc Cống
Tên Gọi Khác :
Xắm Khống, Mông Nhé, Xá Xeng.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Tang - Miến.
Cư Trú :
Chủ yếu tại huyện Mưọng Tè, tỉnh Lai Châu và khu vực ven sông Đà.
Dân Số :
1.300 người.
Kinh Tế :
- Người Cống sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, canh tác theo lối phát rừng, đốt, chềc lỗ tra hạt giống. Gần đây, đồng bào đã làm nương bằng cuốc và sử dụng trâu, bò làm sức kéo. Nhiều thức ăn của đồng bào là tìm kiếm ở trong rừng, kiếm cá dưới suối chủ yếu bắt bằng tay hoặc bả thuốc độc lá cây.
- Phụ nữ Cống không biết nghề dệt, chỉ trồng bông đem đổi lấy vải. Song nam nữ đều đan lát giời, ư nghề đan chiếu mây nhuộm đề.
Văn Hóa - Xã Hội :
- Mỗi hề của người Cống ư một trưởng hề, ư chung một kiêng cữ, ư chung quy định về chỗ đặt bàn thề tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng gia đình, người chồng, người cha giữ vai trò đứng đầu, khi người cha chết thì con trai cả thay thế.
- Người Cống thưọng ở nhà sàn, nhà nào cũng ngăn ra thành 3-4 gian, gian giữa là nơi tiếp khách, chỉ ư một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa
- Nọn văn nghệ dân gian Cống khá phong phú. Với các làn điệu dân ca sâu lắng người ta hát vào dịp lễ hội vui chung.
Phong Tục - Hôn Nhân Gia Đình :
Trước kia chỉ trai gái người Cống mới lấy nhau, nay đã có một số dâu rể là người Thái, Hà Nhì... Theo phong tục Cống, người cùng hề phải cách nhau bảy đời mới được lấy nhau. Việc cưới xin do nhà trai chủ động. Sau lễ dạm hời, chàng trai bắt đầu ở rể vài năm, còn cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu đã ư chồng. Thưọng hề sinh vài đứa con mới cưới. Nhà trai phải ư bạc trắng làm lễ cưới nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng. Iít ngày sau lễ đón dâu, đôi vợ chồng mới đến nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt.
Trang Phục :
Chủ yếu biểu hiện qua trang phục nữ. ọng tay áo trang trí giống Hà Nhì. Cổ trong giống cư dân Việt Mưọng, cúc giống phong cách Môn - Khơ me. Váy đen, khăn đen không trang trí.
Tên Gọi Khác :
Xắm Khống, Mông Nhé, Xá Xeng.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Tang - Miến.
Cư Trú :
Chủ yếu tại huyện Mưọng Tè, tỉnh Lai Châu và khu vực ven sông Đà.
Dân Số :
1.300 người.
Kinh Tế :
- Người Cống sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, canh tác theo lối phát rừng, đốt, chềc lỗ tra hạt giống. Gần đây, đồng bào đã làm nương bằng cuốc và sử dụng trâu, bò làm sức kéo. Nhiều thức ăn của đồng bào là tìm kiếm ở trong rừng, kiếm cá dưới suối chủ yếu bắt bằng tay hoặc bả thuốc độc lá cây.
- Phụ nữ Cống không biết nghề dệt, chỉ trồng bông đem đổi lấy vải. Song nam nữ đều đan lát giời, ư nghề đan chiếu mây nhuộm đề.
Văn Hóa - Xã Hội :
- Mỗi hề của người Cống ư một trưởng hề, ư chung một kiêng cữ, ư chung quy định về chỗ đặt bàn thề tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng gia đình, người chồng, người cha giữ vai trò đứng đầu, khi người cha chết thì con trai cả thay thế.
- Người Cống thưọng ở nhà sàn, nhà nào cũng ngăn ra thành 3-4 gian, gian giữa là nơi tiếp khách, chỉ ư một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa
- Nọn văn nghệ dân gian Cống khá phong phú. Với các làn điệu dân ca sâu lắng người ta hát vào dịp lễ hội vui chung.
Phong Tục - Hôn Nhân Gia Đình :
Trước kia chỉ trai gái người Cống mới lấy nhau, nay đã có một số dâu rể là người Thái, Hà Nhì... Theo phong tục Cống, người cùng hề phải cách nhau bảy đời mới được lấy nhau. Việc cưới xin do nhà trai chủ động. Sau lễ dạm hời, chàng trai bắt đầu ở rể vài năm, còn cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu đã ư chồng. Thưọng hề sinh vài đứa con mới cưới. Nhà trai phải ư bạc trắng làm lễ cưới nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng. Iít ngày sau lễ đón dâu, đôi vợ chồng mới đến nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt.
Trang Phục :
Chủ yếu biểu hiện qua trang phục nữ. ọng tay áo trang trí giống Hà Nhì. Cổ trong giống cư dân Việt Mưọng, cúc giống phong cách Môn - Khơ me. Váy đen, khăn đen không trang trí.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
13.Dân Tộc Cơ Tu
Tên Gọi Khác :
Cề tu Ca Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-tang.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Môn - Khmer.
Dân Số :
37.000 người.
Cư Trú :
Tại các huyện Hiên, Giằng, (Quảng Nam - Đà Nẵng), A Lưới, Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế).
Kinh Tế :
- Sinh sống trên vùng Trưọng Sơn hiểm trở, người Cơ Tu trồng cây lương thực theo lối phát rừng làm rẫy, chềc lỗ tra hạt. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, dệt, đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi hàng hóa theo cách vật đổi vật.
Xã Hội :
- Người Cơ Tu theo chế độ phụ hệ, con lấy hề theo cha, chỉ con trai mới được thừa hưởng gia tài. Mỗi dòng hề người Cơ Tu đều có tên gời riêng, người trong hề phải kiêng cữ một điều nhất định. Có chuyện kể về lai lịch của dòng hề và sự kiêng cữ đó.
- Trong làng người Cơ Tu, các nếp nhà sàn tạo dựng theo hình vành khuyên hoặc gần giống thế. Ngôi nhà rông cao, to, đẹp, hơn cả là nơi tiếp khách chung, hội hềp, cúng tế, tụ tập chuyện trò vui chơi.
Phong Tục - Hôn Nhân Gia Đình :
- Theo tập tục Cơ Tu, khi người hề này đã lấy vợ hề kia, thì người hề kia không được lấy vợ hề này, mà phải tìm ở hề khác. Tập tục người Cơ Tu cho phép khi chồng chết, vợ có thể lấy anh em chồng, khi vợ chết, chồng có thể lấy em hay chị vợ. Việc kết hôn thưọng mang tính gả bán, và sau lễ cưới cô dâu đến ở nhà chồng. Chế độ một vợ một chồng phổ biến, nhưng cũng có một số người khá giả lấy hai vợ.
- Lúc sống, dòng hề có trách nhiệm cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, khi chết được chôn cất bên nhau trong bãi mộ chung của làng. Làm nhà mồ, chung quanh mộ dựng nhiều tượng gỗ, không có tục cúng giỗ, tảo mộ.
Trang Phục :
Có cá tính riêng trong tạo hình và trang trí trang phục, khác các tộc người khác trong khu vực, nhất là trang phục nữ. Đồ trang sức phổ biến là vòng tay, vòng cổ, khuyên tai. Các phong tục xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ông búi tóc sau gáy đã dần được loại bề.
+ Trang phục nam Nam đóng khố, ở trần, đầu hoặc vấn khăn hoặc để tóc ngắn bình thưọng. Khố có các loại bình thưọng (không trang trí hoa văn và ít màu sắc), loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước và trang trí đẹp với màu sắc và hoa văn trên nọn chàm. Mùa rét, hề khoác thêm tấm choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo nguyên tắc bố cục dải băng truyọn thống với các màu trắng đề, xanh. Người ta mang tấm choàng có nhiều cách : hoặc là quấn chéo qua vai trái xuống hông và nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau.
+ Trang phục nữ Phụ nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả buông. Xưa hề để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Hề mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Hề thưọng mặc áo chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Aáo loại này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sưọn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Aáo được trang trí ở vai, ngực, sưọn, gấu, với các màu đề, trắng trên nọn chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy : theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Hề ưa mang các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay đồng hồ (mỗi người có khi mang tới 5,6 cái), khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng như các chuỗi hạt cưềm, về sò, mã não.. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một số loại lông chim. Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành khi đó làm tổ chức lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt.
Tên Gọi Khác :
Cề tu Ca Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-tang.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Môn - Khmer.
Dân Số :
37.000 người.
Cư Trú :
Tại các huyện Hiên, Giằng, (Quảng Nam - Đà Nẵng), A Lưới, Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế).
Kinh Tế :
- Sinh sống trên vùng Trưọng Sơn hiểm trở, người Cơ Tu trồng cây lương thực theo lối phát rừng làm rẫy, chềc lỗ tra hạt. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, dệt, đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi hàng hóa theo cách vật đổi vật.
Xã Hội :
- Người Cơ Tu theo chế độ phụ hệ, con lấy hề theo cha, chỉ con trai mới được thừa hưởng gia tài. Mỗi dòng hề người Cơ Tu đều có tên gời riêng, người trong hề phải kiêng cữ một điều nhất định. Có chuyện kể về lai lịch của dòng hề và sự kiêng cữ đó.
- Trong làng người Cơ Tu, các nếp nhà sàn tạo dựng theo hình vành khuyên hoặc gần giống thế. Ngôi nhà rông cao, to, đẹp, hơn cả là nơi tiếp khách chung, hội hềp, cúng tế, tụ tập chuyện trò vui chơi.
Phong Tục - Hôn Nhân Gia Đình :
- Theo tập tục Cơ Tu, khi người hề này đã lấy vợ hề kia, thì người hề kia không được lấy vợ hề này, mà phải tìm ở hề khác. Tập tục người Cơ Tu cho phép khi chồng chết, vợ có thể lấy anh em chồng, khi vợ chết, chồng có thể lấy em hay chị vợ. Việc kết hôn thưọng mang tính gả bán, và sau lễ cưới cô dâu đến ở nhà chồng. Chế độ một vợ một chồng phổ biến, nhưng cũng có một số người khá giả lấy hai vợ.
- Lúc sống, dòng hề có trách nhiệm cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, khi chết được chôn cất bên nhau trong bãi mộ chung của làng. Làm nhà mồ, chung quanh mộ dựng nhiều tượng gỗ, không có tục cúng giỗ, tảo mộ.
Trang Phục :
Có cá tính riêng trong tạo hình và trang trí trang phục, khác các tộc người khác trong khu vực, nhất là trang phục nữ. Đồ trang sức phổ biến là vòng tay, vòng cổ, khuyên tai. Các phong tục xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ông búi tóc sau gáy đã dần được loại bề.
+ Trang phục nam Nam đóng khố, ở trần, đầu hoặc vấn khăn hoặc để tóc ngắn bình thưọng. Khố có các loại bình thưọng (không trang trí hoa văn và ít màu sắc), loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước và trang trí đẹp với màu sắc và hoa văn trên nọn chàm. Mùa rét, hề khoác thêm tấm choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo nguyên tắc bố cục dải băng truyọn thống với các màu trắng đề, xanh. Người ta mang tấm choàng có nhiều cách : hoặc là quấn chéo qua vai trái xuống hông và nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau.
+ Trang phục nữ Phụ nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả buông. Xưa hề để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Hề mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Hề thưọng mặc áo chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Aáo loại này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sưọn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Aáo được trang trí ở vai, ngực, sưọn, gấu, với các màu đề, trắng trên nọn chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy : theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Hề ưa mang các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay đồng hồ (mỗi người có khi mang tới 5,6 cái), khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng như các chuỗi hạt cưềm, về sò, mã não.. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một số loại lông chim. Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành khi đó làm tổ chức lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
14.Dân Tộc Gia_Rai
Tên Gời Khác :
_ Giơ-rai, Chơ rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor, Gia Lai.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Malayô - Pôlinêxia.
Dân Số :
_ 17.580 người.
Cư Trú :
_Tập trung ở tỉnh Gia Lai, một bộ phận ở tỉnh Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.
Đặc Điểm Tinh Tế :
_ Người Gia Rai sống chủ yếu bằng nghề trồng trềt nương rẫy, lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ canh tác của người Gia Rai giản đơn, chủ yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và cây gậy chềc lỗ khi tra hạt giống. Chăn nuôi trâu, bò, lợn, chó, gà phát triển. Xưa kia, người Gia Rai có đàn ngựa khá đông. Người Gia Rai còn nuôi cả voi. Đàn ông thạo đan lát các loại gùi, giề, đàn bà giời dệt khố váy, mọn đắp, vải may áo cho gia đình. Săn bắn, hái lượm, đánh cá là những hoạt động kinh tế phụ khác có ý nghĩa đáng kể đối với đời sống của hề xưa và nay.
Xã Hội - Văn Hóa :
_ Người Gia Rai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Trong làng ông trưởng làng cùng các bô lão có uy tín lớn và giữ vai trò điều hành mời sinh hoạt tập thể, ai nấy đều nghe và làm theo. Mỗi làng có nhà rông cao vút.
_ Nói đến dân tộc Gia Rai phải kể đến những trưọng ca, truyện cổ nổi tiếng như "Đăm Di đi săn", "Xinh Nhã"... Dân tộc Gia Rai cũng độc đáo trong nghệ thuật chơi chiêng, cồng, cạnh đó là đàn Trưng, đàn Tưng-nưng, đàm Krông-pút. Những nhạc cụ truyọn thống này gắn liọn với đời sống tinh thần của đồng bào. Người Gia Rai hầu như hát múa từ tuổi nhi đồng cho đến khi già yếu, không còn đủ sức nữa, mới chịu đứng ngoài những cuộc nhảy múa nhân dịp lễ hội tổ chức trong làng hay trong gia đình.
_ Nhà cửa, có nơi ở nhà dài, có nơi làm nhà nhề, nhưng đều chung tập quán ở nhà sàn, đều theo truyọn thống mở cửa chính nhìn về hướng Bắc.
Hôn Nhân và Gia Đình :
_ Dân tộc Gia Rai theo truyọn thống mẫu hệ, phụ nữ tự do lựa chọn người yêu và chủ động việc hôn nhân. Sau lễ cưới, chàng trai về ở nhà vợ, không được thừa kế tài sản. Trái lại, con gái lấy chồng lần lượt tách khời cha mẹ ra ở riêng, được phân chia một phần tài sản. Con cái đều theo hề mẹ. Ngoài xã hội, đàn ông đóng vai trò quan trọng hơn, nhưng trong nhà phụ nữ có ưu thế hơn. Ngày xưa, có tục những người cùng dòng hề (theo phía mẹ), khi chết chôn chung một hố, nay tục này đã giảm.
Trang phục :
_ Có nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có thông số chung của tộc người.
_ Trang phục nam Thưọng nhật, nam đội khăn, theo lối quấn nhiều vòng trên đầu rồi buông sang một bên tai, hoặc quấn gọn ghẽ như khăn xếp của người Kinh. Khăn màu chàm. Nhìn chung nam giới Gia Rai đóng khố. Khố này thưọng ngắn hơn khố ngày hội, là loại vải trắng có kẻ sềc. Ngày lễ hề mang khố màu chàm (dài 410 cm x 29 cm), khố loại này được trang trí hoa văn màu trắng, đề thành các đưọng viọn ở mép khố, đặc biệt hai đầu với các tua trên nọn chàm. Có nhóm ở trần, có nhóm mang áo (loại cộc tay và loại dài tay màu chàm, khoét cổ chui đầu). Loại ngắn tay thưọng có đưọng viọn chỉ màu trắng bên sưọn. Loại dài tay giống phong cách áo dài nam Ê-đê hay Mnông.
_ Trang phục nữ Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy hoặc quấn gọn trên đỉnh đầu. �?o là loại áo ngắn, chui đầu, phổ biến là kiểu chui đầu cổ "hình thuyọn", riêng nhóm Gia Rai Mthur lại có kiểu cổ thấp hình chữ V và các loại cổ phổ biến. Trên nọn chàm áo được trang trí các sềc hoa văn theo bố cục ngang thân áo ở cổ, vai, ống tay, giữa ngực, gấu áo và hai cổ tay áo. Đó là các sềc màu đề xen trắng và vàng trên nọn chàm hoặc màu xanh nhạt diệp và màu chàm. Váy là loại váy hở quấn vào thân (kích thước trên dưới 140 cm x 100 cm). Phong cách trang trí trên váy cũng thiên về lối bố cục ngang với các đưọng sềc màu (như áo là chính). Có nhóm ở Plây-cu với nguyên tắc trên nhưng được mở rộng thành các mảng hoa văn ở giữa thân váy, nửa thân dưới áo và hai ống tay. Trang sức có vòng cổ, vòng tay.
Tên Gời Khác :
_ Giơ-rai, Chơ rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor, Gia Lai.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Malayô - Pôlinêxia.
Dân Số :
_ 17.580 người.
Cư Trú :
_Tập trung ở tỉnh Gia Lai, một bộ phận ở tỉnh Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.
Đặc Điểm Tinh Tế :
_ Người Gia Rai sống chủ yếu bằng nghề trồng trềt nương rẫy, lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ canh tác của người Gia Rai giản đơn, chủ yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và cây gậy chềc lỗ khi tra hạt giống. Chăn nuôi trâu, bò, lợn, chó, gà phát triển. Xưa kia, người Gia Rai có đàn ngựa khá đông. Người Gia Rai còn nuôi cả voi. Đàn ông thạo đan lát các loại gùi, giề, đàn bà giời dệt khố váy, mọn đắp, vải may áo cho gia đình. Săn bắn, hái lượm, đánh cá là những hoạt động kinh tế phụ khác có ý nghĩa đáng kể đối với đời sống của hề xưa và nay.
Xã Hội - Văn Hóa :
_ Người Gia Rai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Trong làng ông trưởng làng cùng các bô lão có uy tín lớn và giữ vai trò điều hành mời sinh hoạt tập thể, ai nấy đều nghe và làm theo. Mỗi làng có nhà rông cao vút.
_ Nói đến dân tộc Gia Rai phải kể đến những trưọng ca, truyện cổ nổi tiếng như "Đăm Di đi săn", "Xinh Nhã"... Dân tộc Gia Rai cũng độc đáo trong nghệ thuật chơi chiêng, cồng, cạnh đó là đàn Trưng, đàn Tưng-nưng, đàm Krông-pút. Những nhạc cụ truyọn thống này gắn liọn với đời sống tinh thần của đồng bào. Người Gia Rai hầu như hát múa từ tuổi nhi đồng cho đến khi già yếu, không còn đủ sức nữa, mới chịu đứng ngoài những cuộc nhảy múa nhân dịp lễ hội tổ chức trong làng hay trong gia đình.
_ Nhà cửa, có nơi ở nhà dài, có nơi làm nhà nhề, nhưng đều chung tập quán ở nhà sàn, đều theo truyọn thống mở cửa chính nhìn về hướng Bắc.
Hôn Nhân và Gia Đình :
_ Dân tộc Gia Rai theo truyọn thống mẫu hệ, phụ nữ tự do lựa chọn người yêu và chủ động việc hôn nhân. Sau lễ cưới, chàng trai về ở nhà vợ, không được thừa kế tài sản. Trái lại, con gái lấy chồng lần lượt tách khời cha mẹ ra ở riêng, được phân chia một phần tài sản. Con cái đều theo hề mẹ. Ngoài xã hội, đàn ông đóng vai trò quan trọng hơn, nhưng trong nhà phụ nữ có ưu thế hơn. Ngày xưa, có tục những người cùng dòng hề (theo phía mẹ), khi chết chôn chung một hố, nay tục này đã giảm.
Trang phục :
_ Có nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có thông số chung của tộc người.
_ Trang phục nam Thưọng nhật, nam đội khăn, theo lối quấn nhiều vòng trên đầu rồi buông sang một bên tai, hoặc quấn gọn ghẽ như khăn xếp của người Kinh. Khăn màu chàm. Nhìn chung nam giới Gia Rai đóng khố. Khố này thưọng ngắn hơn khố ngày hội, là loại vải trắng có kẻ sềc. Ngày lễ hề mang khố màu chàm (dài 410 cm x 29 cm), khố loại này được trang trí hoa văn màu trắng, đề thành các đưọng viọn ở mép khố, đặc biệt hai đầu với các tua trên nọn chàm. Có nhóm ở trần, có nhóm mang áo (loại cộc tay và loại dài tay màu chàm, khoét cổ chui đầu). Loại ngắn tay thưọng có đưọng viọn chỉ màu trắng bên sưọn. Loại dài tay giống phong cách áo dài nam Ê-đê hay Mnông.
_ Trang phục nữ Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy hoặc quấn gọn trên đỉnh đầu. �?o là loại áo ngắn, chui đầu, phổ biến là kiểu chui đầu cổ "hình thuyọn", riêng nhóm Gia Rai Mthur lại có kiểu cổ thấp hình chữ V và các loại cổ phổ biến. Trên nọn chàm áo được trang trí các sềc hoa văn theo bố cục ngang thân áo ở cổ, vai, ống tay, giữa ngực, gấu áo và hai cổ tay áo. Đó là các sềc màu đề xen trắng và vàng trên nọn chàm hoặc màu xanh nhạt diệp và màu chàm. Váy là loại váy hở quấn vào thân (kích thước trên dưới 140 cm x 100 cm). Phong cách trang trí trên váy cũng thiên về lối bố cục ngang với các đưọng sềc màu (như áo là chính). Có nhóm ở Plây-cu với nguyên tắc trên nhưng được mở rộng thành các mảng hoa văn ở giữa thân váy, nửa thân dưới áo và hai ống tay. Trang sức có vòng cổ, vòng tay.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
15.Dân Tộc Giáy
Tên Gọi Khác :
Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Xạ.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Tày - Thái.
Dân Số :
38.000 người.
Cư Trú :
Ở Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu và Cao Bằng.
Kinh Tế - Văn Hóa :
_Người Giáy làm ruộng nước là chính, rẫy chỉ là nguồn thu nhập thêm và thưọng cũng là chỗ chăn nuôi lợn, gà. Đồng bào nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt, có truyọn thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ.
_Người Giáy vốn có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao v.v... Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, có nhiều truyện thơ dài, có truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn.
_Nhà cửa, nhóm người Giáy vùng Hà Giang, Cao Bằng ở nhà sàn. Nhóm Giáy vùng Lào Cai, Lai Châu ở nhà đất. Nhưng qua tài liệu văn hềc dân gian thì người Giáy vốn ở nhà sàn. Hiện nay đồng bào ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn thề tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình quay ở các gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thưọng đặt ở gian bên; nay có nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng.
Hôn Nhân Gia Đình :
Theo phong tục Giáy, trong các gia đình vị thế nổi bật là người chồng, người cha. Con cái lấy hề theo cha. Nhà trai chủ động việc cưới xin, sau lễ cưới, cô dâu về ở cùng gia đình nhà chồng, tuy vậy việc ở rể cũng là phổ biến. Trước kia người Giáy có tục "kéo vợ". Đó là trưọng hợp cô gái và gia đình cô ta đồng ý nhưng nhà trai không đủ tiọn của để cưới hời đưọng hoàng, chàng trai phải tổ chức "kéo vợ". Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Dịp đứa bé đầy tháng, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin tổ tiên phù hộ. Tên, ngày tháng năm sinh của mỗi người được thầy cúng ghi vào miếng vải đề, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin và chọn giề trong việc đám ma của chính người đó.
Trang Phục :
Trang phục Giáy được chọn chủ yếu là ở trang phục nữ với loại áo ngắn xẻ nách viọn cổ trang trí đậm nét. Một số tộc người ở nước ta (phía bắc) có mặc loại áo xẻ nách (thưọng là áo dài), số áo ngắn loại này không nhiều như Nùng... Tuy nhiên đây là loại áo với kỹ thuật "xẻ nách" và phong cách trang trí ở đưọng viọn cổ, tuy không cầu kỳ nhưng là một sắc thái riêng cho loại áo này về kỹ thuật và mỹ thuật.
_Trang phục nam : Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, đứng, cài cúc vải. Aáo thưọng có ba túi, hai túi dưới, một túi trên bên phải. Thân áo hơi ngắn, màu chàm. Nam mặc quần ống đứng (rộng 35 - 40 cm), cạp to bản, không dũng dây cút mà chỉ vận vào người. Trước đây nam giới thưọng quấn khăn trên đầu. Có nhóm nam cũng mặc áo xẻ nách.
_Trang phục nữ : Phụ nữ Giáy phổ biến mặc loại áo ngắn xẻ nách. Đây là loại áo ngắn trùm kín mông, xẻ nách phải, ống tay rộng. Cổ áo đưọng viọn xẻ nách từ vai trái sang phải được viọn và trang trí vải khác màu (thưọng là tương phản với nọn áo) cũng như ở hai vai, giữa cánh tay và cửa tay. Cũng có loại áo như trên nhưng lại để chàm hoặc trắng nguyên không trang trí. Aáo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Aáo xẻ nách cài cúc vải được tết cẩn thận với nhiều loại đẹp mắt. Phụ nữ Giáy thưọng đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Nhóm Giáy Lao Cai, Lai Châu mặc quần chàm ngắn đến mắt cá chân, ống rộng. Tóc vấn theo kiểu vành khăn và thưọng đeo túi vải thêu hoa văn phổ biến ở đáy túi là hình răng chó. Phổ biến đi loại giày vải thêu hoa văn nhiều loại.
Tên Gọi Khác :
Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Xạ.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Tày - Thái.
Dân Số :
38.000 người.
Cư Trú :
Ở Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu và Cao Bằng.
Kinh Tế - Văn Hóa :
_Người Giáy làm ruộng nước là chính, rẫy chỉ là nguồn thu nhập thêm và thưọng cũng là chỗ chăn nuôi lợn, gà. Đồng bào nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt, có truyọn thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ.
_Người Giáy vốn có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao v.v... Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, có nhiều truyện thơ dài, có truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn.
_Nhà cửa, nhóm người Giáy vùng Hà Giang, Cao Bằng ở nhà sàn. Nhóm Giáy vùng Lào Cai, Lai Châu ở nhà đất. Nhưng qua tài liệu văn hềc dân gian thì người Giáy vốn ở nhà sàn. Hiện nay đồng bào ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn thề tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình quay ở các gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thưọng đặt ở gian bên; nay có nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng.
Hôn Nhân Gia Đình :
Theo phong tục Giáy, trong các gia đình vị thế nổi bật là người chồng, người cha. Con cái lấy hề theo cha. Nhà trai chủ động việc cưới xin, sau lễ cưới, cô dâu về ở cùng gia đình nhà chồng, tuy vậy việc ở rể cũng là phổ biến. Trước kia người Giáy có tục "kéo vợ". Đó là trưọng hợp cô gái và gia đình cô ta đồng ý nhưng nhà trai không đủ tiọn của để cưới hời đưọng hoàng, chàng trai phải tổ chức "kéo vợ". Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Dịp đứa bé đầy tháng, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin tổ tiên phù hộ. Tên, ngày tháng năm sinh của mỗi người được thầy cúng ghi vào miếng vải đề, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin và chọn giề trong việc đám ma của chính người đó.
Trang Phục :
Trang phục Giáy được chọn chủ yếu là ở trang phục nữ với loại áo ngắn xẻ nách viọn cổ trang trí đậm nét. Một số tộc người ở nước ta (phía bắc) có mặc loại áo xẻ nách (thưọng là áo dài), số áo ngắn loại này không nhiều như Nùng... Tuy nhiên đây là loại áo với kỹ thuật "xẻ nách" và phong cách trang trí ở đưọng viọn cổ, tuy không cầu kỳ nhưng là một sắc thái riêng cho loại áo này về kỹ thuật và mỹ thuật.
_Trang phục nam : Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, đứng, cài cúc vải. Aáo thưọng có ba túi, hai túi dưới, một túi trên bên phải. Thân áo hơi ngắn, màu chàm. Nam mặc quần ống đứng (rộng 35 - 40 cm), cạp to bản, không dũng dây cút mà chỉ vận vào người. Trước đây nam giới thưọng quấn khăn trên đầu. Có nhóm nam cũng mặc áo xẻ nách.
_Trang phục nữ : Phụ nữ Giáy phổ biến mặc loại áo ngắn xẻ nách. Đây là loại áo ngắn trùm kín mông, xẻ nách phải, ống tay rộng. Cổ áo đưọng viọn xẻ nách từ vai trái sang phải được viọn và trang trí vải khác màu (thưọng là tương phản với nọn áo) cũng như ở hai vai, giữa cánh tay và cửa tay. Cũng có loại áo như trên nhưng lại để chàm hoặc trắng nguyên không trang trí. Aáo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Aáo xẻ nách cài cúc vải được tết cẩn thận với nhiều loại đẹp mắt. Phụ nữ Giáy thưọng đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Nhóm Giáy Lao Cai, Lai Châu mặc quần chàm ngắn đến mắt cá chân, ống rộng. Tóc vấn theo kiểu vành khăn và thưọng đeo túi vải thêu hoa văn phổ biến ở đáy túi là hình răng chó. Phổ biến đi loại giày vải thêu hoa văn nhiều loại.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
16.Dân Tộc Giẻ-Triêng
Tên Gọi Khác :
_ Đgiéh, Ta Reh, Giảng Rây, Pin, Triêng, Treng, Ta Liêng, Ve, La-Ve, Bnoong, Ca Tang.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer.
Dân Số :
_ 36.907 người.
Cư Trú :
_ Ở tỉnh Kon Tum và miọn núi tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Giẻ Triêng sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, ngoài ra còn săn bắn, đánh cá, hái lượm các loại rau rừng, hoa quả, nấm... làm thức ăn hàng ngày. Đồng bào chăn nuôi trâu bò, lợn, gà chủ yếu dùng vào lễ hiến sinh
_Người Gié-Triêng có sở trưọng về đan lát, nghề dệt vải phát triển ở nhiều nơi, vùng �?ắc Pét có truyọn thống đãi vàng sa khoáng và làm đồ gốm ở trình độ chưa biết dùng bàn xoay và chưa biết xây lò nung. Quan hệ hàng hoá trước kia dùng vật đổi vật, nay đã dùng tiọn.
Phong Tục - Tập Quán - Hôn Nhân Gia Đình :
_ Mỗi người Giẻ Triêng (trừ nhóm Bnoong) đều có hề kèm theo tên, nhưng hề của đàn ông khác với hề của đàn bà. Mỗi hề đều có kiêng kỵ, một truyện cổ giải thích về tên hề và điều kiêng kỵ đó như sau: Xưa kia, con trai theo hề bố, con gái theo hề mẹ.
_ Theo tục lệ cũ, trẻ em trai khoảng 10 tuổi bắt đầu ngủ đêm tại nhà rông, khoảng 3-15 tuổi thì cà răng và sau đó vài ba năm sẽ lấy vợ. Con gái chủ động trong việc hôn nhân của mình và sự lựa chọn của con cái được cha mẹ tôn trọng. Trước khi nên vợ, nên chồng, các tràng trai phải biết đan lát, biết tấu chiêng cồng, các cô gái phải thạo đan chiếu, dệt vải (ở những vùng có nghề dệt). Cô gái phải chuẩn bị đủ 100 bó củi đẹp để nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Đôi vợ chồng mới cưới thưọng ở nhà cùng cha mẹ vợ khoảng 3-4 năm rồi chuyển sang ở nhà bố mẹ chồng 3-4 năm, cứ luân phiên như thế cho đến khi cha mẹ một bên qua đời mới định cư một chỗ.
_ Tục lệ ma chay :Người chết được chôn trong quan tài độc mộc, có đẽo tượng đầu trâu, huyệt đào rất nông, đưa đám tang chỉ có vài người nhà và sau một thời gian thì làm lễ bề mả để đoạn tang.
_ Nhà cửa : người Giẻ Triêng ở nhà sàn dài, nhiều nơi làm mái đầu hồi uốn khum hình mu rùa. Thưọng thì các nhà trong làng được xếp thành hình tròn xung quanh nhà rông. Khác với nhà rông của một số tộc, nhà sàn Giẻ Triêng được chia làm hai nửa bởi hành lang chạy dềc: một nửa của nam giới, một nửa của nữ giới. Nhà người Giẻ Triêng ở Kontum hiện nay là nhà sàn ngắn và vài hộ gia đình cùng chung sống với nhau.
Trang Phục :
Có cá tính riêng trong tạo hình và cách ăn vận.
_Trang phục nam : Nam giới để tóc ngắn hoặc đội khăn chàm theo lối chữ nhất trên đầu. Thân ở trần hoặc tấm "áo" khoác ngoài chéo qua vai, màu chàm có các sềc trang trí. Hề mang khố khổ hẹp, dài không có tua, thân và các mép khố được viọn và trang trí hoa văn ở hai đầu trên nọn chàm. Nam cũng đeo vòng cổ, vòng ngoài khố mang chuỗi hạt vòng. Trong các dịp tết lễ, hề mang thêm tấm choàng rộng màu chàm có các sềc mầu trang trí phủ kín thân.
_Trang phục nữ : Phụ nữ Giẻ Triêng để tóc dài quấn sau gáy. Hề không mang áo mà mang loại váy dài cao sát nách. Đây là loại váy ống tương đối dài rộng. Đầu váy giữa thân và gấu váy được trang trí các sềc hoa văn màu đề trên nọn chàm. Lối mặc có tính chất vừa váy, vừa áo này là một đặc điểm rất khác biệt của phụ nữ Giẻ Triêng, ít gặp ở các dân tộc khác từ Bắc vào Nam, rất cổ truyọn và cũng không kém phần hiện đại. Đây cũng là một lý do trang phục Giẻ Triêng được chọn vào "Làng văn hóa các dân tộc". Lối mặc váy đặc biệt là quấn mép ra trước giữa thân, đầu váy còn thừa (váy loại này thưọng dài - cao gấp rưỡi váy bình thưọng), lộn ngược ra phía trước hoặc quấn thành nhiều nếp gấp ra xung quanh trông như một chiếc áo ngắn. Phụ nữ còn mang vòng tay vòng cổ.
Trang phục Giẻ Triêng là ngôn ngữ riêng cùng với một số dân tộc khu vực Trưọng Sơn - Tây Nguyên là cứ liệu quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử trang phục ở nước ta.
Tên Gọi Khác :
_ Đgiéh, Ta Reh, Giảng Rây, Pin, Triêng, Treng, Ta Liêng, Ve, La-Ve, Bnoong, Ca Tang.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer.
Dân Số :
_ 36.907 người.
Cư Trú :
_ Ở tỉnh Kon Tum và miọn núi tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Giẻ Triêng sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, ngoài ra còn săn bắn, đánh cá, hái lượm các loại rau rừng, hoa quả, nấm... làm thức ăn hàng ngày. Đồng bào chăn nuôi trâu bò, lợn, gà chủ yếu dùng vào lễ hiến sinh
_Người Gié-Triêng có sở trưọng về đan lát, nghề dệt vải phát triển ở nhiều nơi, vùng �?ắc Pét có truyọn thống đãi vàng sa khoáng và làm đồ gốm ở trình độ chưa biết dùng bàn xoay và chưa biết xây lò nung. Quan hệ hàng hoá trước kia dùng vật đổi vật, nay đã dùng tiọn.
Phong Tục - Tập Quán - Hôn Nhân Gia Đình :
_ Mỗi người Giẻ Triêng (trừ nhóm Bnoong) đều có hề kèm theo tên, nhưng hề của đàn ông khác với hề của đàn bà. Mỗi hề đều có kiêng kỵ, một truyện cổ giải thích về tên hề và điều kiêng kỵ đó như sau: Xưa kia, con trai theo hề bố, con gái theo hề mẹ.
_ Theo tục lệ cũ, trẻ em trai khoảng 10 tuổi bắt đầu ngủ đêm tại nhà rông, khoảng 3-15 tuổi thì cà răng và sau đó vài ba năm sẽ lấy vợ. Con gái chủ động trong việc hôn nhân của mình và sự lựa chọn của con cái được cha mẹ tôn trọng. Trước khi nên vợ, nên chồng, các tràng trai phải biết đan lát, biết tấu chiêng cồng, các cô gái phải thạo đan chiếu, dệt vải (ở những vùng có nghề dệt). Cô gái phải chuẩn bị đủ 100 bó củi đẹp để nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Đôi vợ chồng mới cưới thưọng ở nhà cùng cha mẹ vợ khoảng 3-4 năm rồi chuyển sang ở nhà bố mẹ chồng 3-4 năm, cứ luân phiên như thế cho đến khi cha mẹ một bên qua đời mới định cư một chỗ.
_ Tục lệ ma chay :Người chết được chôn trong quan tài độc mộc, có đẽo tượng đầu trâu, huyệt đào rất nông, đưa đám tang chỉ có vài người nhà và sau một thời gian thì làm lễ bề mả để đoạn tang.
_ Nhà cửa : người Giẻ Triêng ở nhà sàn dài, nhiều nơi làm mái đầu hồi uốn khum hình mu rùa. Thưọng thì các nhà trong làng được xếp thành hình tròn xung quanh nhà rông. Khác với nhà rông của một số tộc, nhà sàn Giẻ Triêng được chia làm hai nửa bởi hành lang chạy dềc: một nửa của nam giới, một nửa của nữ giới. Nhà người Giẻ Triêng ở Kontum hiện nay là nhà sàn ngắn và vài hộ gia đình cùng chung sống với nhau.
Trang Phục :
Có cá tính riêng trong tạo hình và cách ăn vận.
_Trang phục nam : Nam giới để tóc ngắn hoặc đội khăn chàm theo lối chữ nhất trên đầu. Thân ở trần hoặc tấm "áo" khoác ngoài chéo qua vai, màu chàm có các sềc trang trí. Hề mang khố khổ hẹp, dài không có tua, thân và các mép khố được viọn và trang trí hoa văn ở hai đầu trên nọn chàm. Nam cũng đeo vòng cổ, vòng ngoài khố mang chuỗi hạt vòng. Trong các dịp tết lễ, hề mang thêm tấm choàng rộng màu chàm có các sềc mầu trang trí phủ kín thân.
_Trang phục nữ : Phụ nữ Giẻ Triêng để tóc dài quấn sau gáy. Hề không mang áo mà mang loại váy dài cao sát nách. Đây là loại váy ống tương đối dài rộng. Đầu váy giữa thân và gấu váy được trang trí các sềc hoa văn màu đề trên nọn chàm. Lối mặc có tính chất vừa váy, vừa áo này là một đặc điểm rất khác biệt của phụ nữ Giẻ Triêng, ít gặp ở các dân tộc khác từ Bắc vào Nam, rất cổ truyọn và cũng không kém phần hiện đại. Đây cũng là một lý do trang phục Giẻ Triêng được chọn vào "Làng văn hóa các dân tộc". Lối mặc váy đặc biệt là quấn mép ra trước giữa thân, đầu váy còn thừa (váy loại này thưọng dài - cao gấp rưỡi váy bình thưọng), lộn ngược ra phía trước hoặc quấn thành nhiều nếp gấp ra xung quanh trông như một chiếc áo ngắn. Phụ nữ còn mang vòng tay vòng cổ.
Trang phục Giẻ Triêng là ngôn ngữ riêng cùng với một số dân tộc khu vực Trưọng Sơn - Tây Nguyên là cứ liệu quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử trang phục ở nước ta.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
17.Dân Tộc H'Mông ( Miêu )
Tên Gọi Khác :
_Người Hmông, người Hơ-mông, người Miêu, người Mèo, người Mông .
_Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lọnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đề), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán).
Nhóm Ngôn Ngữ :
_Bao gồm 3 thứ tiếng và 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được.
_Mèo - Dao ( VN ).
Dân Số :
Khoảng trên 780.000 người.
Cư Trú :
_ Quê hương của hề là những vùng núi cao ở phía nam Trung Quốc (đặc biệt là Quý Châu) cũng như các khu vực miọn bắc của Đông Nam �? (bắc Việt Nam và Lào).
_Người Hmông có lịch sử có lẽ từ cuối thời kỳ băng hà. Lịch sử sơ kỳ của hề có thể lần theo dấu vết của các câu truyện truyọn khẩu và các lễ nghi an táng của hề.
_Trong truyện truyọn khẩu, truyọn thuyết của người Hmông nói rằng hề đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, hề đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi trong một số ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn mà không có con chó của mình. Khi người thợ săn bắt đầu lên đưọng trở lại thì con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người Hmông cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt hề tới Trung Hoa.
_Nơi thứ hai trong đó mô tả người Hmông từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an táng "chỉ đưọng" của hề. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bề thế giới này để trở về với cội nguồn của hề, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được mô tả trong truyện truyọn khẩu và nghi thức an táng của người Hmông chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.
_Hai thuật ngữ, Miêu và Hmông (H'Mông tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Hề sống chủ yếu ở miọn nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người 'Miêu' ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu. Ngoài phạm vi Trung Quốc hề còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gời là Lào Sủng), Việt Nam và Myanma do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guiana thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu.
_Cư trú tập trung ở miọn núi vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An .
Kinh Tế - Xã Hội - Văn Hóa :
_Nguồn sống chính của đồng bào Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Mông quan niệm: Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.
_Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng hề là anh em cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng hề cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng hề đảm nhiệm công việc chung.
_Tết cổ truyọn của người Mông tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong 3 ngày tết, hề không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thưọng thổi khèn gời bạn. Nhạc cụ của người Mông có nhiều loại khèn và đàn môi. Sau một ngày lao động mệt mời, thanh niên dùng khèn, đàn môi gời bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.
_Nhà có những đặc trưng riêng. Nhà thưọng ba gian không có chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới .Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt: khá thống nhất giữa mời nhà.
Nhà ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giề cũng là nơi đặt bàn thề tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ơở đây thưọng có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc.
Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà .
Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyọn của người Mèo.
Hôn Nhân và Gia Đình :
Hôn nhân của người Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng hề không lấy nhau. Người Mông có tục "háy pù", tức là trong trưọng hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Vợ chồng người Mông rất ít bề nhau, hề sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè...
Trang Phục :
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng.
Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.
_Trang phục nam : Nam thưọng mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. �?o nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thưọng không trang trí loại năm thân được trang trí những đưọng vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thưọng chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.
_Trang phục nữ : Người HMông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ H'mông thưọng mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. ọng tay áo thưọng trang trí hoa văn những đưọng vằn ngang từ nách đến cửa tay, đưọng viọn cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viọn vải khác màu (thưọng là đề và hoa văn trên nọn chàm). Phụ nữ H'mông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thưọng được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thưọng mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thưọng để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Tên Gọi Khác :
_Người Hmông, người Hơ-mông, người Miêu, người Mèo, người Mông .
_Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lọnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đề), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán).
Nhóm Ngôn Ngữ :
_Bao gồm 3 thứ tiếng và 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được.
_Mèo - Dao ( VN ).
Dân Số :
Khoảng trên 780.000 người.
Cư Trú :
_ Quê hương của hề là những vùng núi cao ở phía nam Trung Quốc (đặc biệt là Quý Châu) cũng như các khu vực miọn bắc của Đông Nam �? (bắc Việt Nam và Lào).
_Người Hmông có lịch sử có lẽ từ cuối thời kỳ băng hà. Lịch sử sơ kỳ của hề có thể lần theo dấu vết của các câu truyện truyọn khẩu và các lễ nghi an táng của hề.
_Trong truyện truyọn khẩu, truyọn thuyết của người Hmông nói rằng hề đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, hề đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi trong một số ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn mà không có con chó của mình. Khi người thợ săn bắt đầu lên đưọng trở lại thì con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người Hmông cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt hề tới Trung Hoa.
_Nơi thứ hai trong đó mô tả người Hmông từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an táng "chỉ đưọng" của hề. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bề thế giới này để trở về với cội nguồn của hề, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được mô tả trong truyện truyọn khẩu và nghi thức an táng của người Hmông chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.
_Hai thuật ngữ, Miêu và Hmông (H'Mông tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Hề sống chủ yếu ở miọn nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người 'Miêu' ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu. Ngoài phạm vi Trung Quốc hề còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gời là Lào Sủng), Việt Nam và Myanma do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guiana thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu.
_Cư trú tập trung ở miọn núi vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An .
Kinh Tế - Xã Hội - Văn Hóa :
_Nguồn sống chính của đồng bào Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Mông quan niệm: Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.
_Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng hề là anh em cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng hề cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng hề đảm nhiệm công việc chung.
_Tết cổ truyọn của người Mông tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong 3 ngày tết, hề không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thưọng thổi khèn gời bạn. Nhạc cụ của người Mông có nhiều loại khèn và đàn môi. Sau một ngày lao động mệt mời, thanh niên dùng khèn, đàn môi gời bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.
_Nhà có những đặc trưng riêng. Nhà thưọng ba gian không có chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới .Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt: khá thống nhất giữa mời nhà.
Nhà ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giề cũng là nơi đặt bàn thề tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ơở đây thưọng có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc.
Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà .
Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyọn của người Mèo.
Hôn Nhân và Gia Đình :
Hôn nhân của người Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng hề không lấy nhau. Người Mông có tục "háy pù", tức là trong trưọng hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Vợ chồng người Mông rất ít bề nhau, hề sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè...
Trang Phục :
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng.
Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.
_Trang phục nam : Nam thưọng mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. �?o nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thưọng không trang trí loại năm thân được trang trí những đưọng vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thưọng chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.
_Trang phục nữ : Người HMông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ H'mông thưọng mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. ọng tay áo thưọng trang trí hoa văn những đưọng vằn ngang từ nách đến cửa tay, đưọng viọn cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viọn vải khác màu (thưọng là đề và hoa văn trên nọn chàm). Phụ nữ H'mông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thưọng được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thưọng mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thưọng để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
18.Dân Tộc Hà Nhì
Tên Gọi Khác :
U Ní, Xá U Ní
Nhóm Ngôn Ngữ :
Tạng - Miến. Giề đây hề sử dụng chữ cái Latinh làm chữ viết
Nguồn Gốc :
_ Người ta chưa biết rõ nguồn gốc của người Hà Nhì, tuy tổ tiên hề, tộc người Khương, đã di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía nam từ trước thế kỷ thứ ba.
_ Theo lời truyọn miệng của người Hà Nhì thì hề có nguồn gốc từ người Di (Yi), tách khời nhau thành bộ tộc riêng biệt 50 đời về trước.
Dân Số :
17.500 người. (1999)
Cư Trú :
Ở các tỉnh Lai Châu và Lào Cai.
Kinh Tế - Xã Hội :
_Nguồn gốc chính của đồng bào là trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyọn thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vưọn cạnh nhà...
_Chăn nuôi là một nghề phát triển. Các nghề thủ công như đan lát, dệt vải cũng rất phổ biến. Phần đông người Hà Nhì tự túc được vải mặc.
_Người Hà Nhì hiện nay đã định cư, mỗi bản có khi đông tới 60 hộ. Người Hà Nhì có nhiều hề, mỗi hề gồm nhiều chi. Dịp tết hàng năm có tục cả dòng hề tụ tập lại nghe người già kể tộc phả của mình, có dòng hề nhớ được về xưa tới 40 đời.
_Tên của người Hà Nhì thưọng đặt theo tập tục là lấy tên người cha, hoặc tên con vật ứng với ngày sinh của người ấy làm tên đệm.
Văn Hóa - Phong Tục Tập Quán :
_Người Hà Nhì có nhiều truyện cổ, có cả truyện thơ dài. Nam nữ thanh niên có điệu múa riêng, đều theo nhịp tấu, nhạc cụ gõ. Trai gái Hà Nhì tề tình thưọng dùng các loại khèn lá, đàn môi, sáo dềc. Các thiếu nữ thích thổi am-ba, mét-du, tuy-húy hay nát-xi vào ban đêm. Con trai gảy đàn La Khư. Ngày lễ hội còn có trống, thanh la, chập cheng góp vui. Người Hà Nhì có nhiều loại bài hát: các bà mẹ hát ru, thanh niên nam nữ hát đối... Có hát đám cưới, hát đám ma, hát mừng nhà mới, hát tiếp khách quí, hát trong ngày tết... Bài hát đám cưới của người Hà Nhì ở Mưọng Tè (Lai Châu) dài tới 400 câu.
_Phong tục ma chay của các vùng không hoàn toàn giống nhau, nhưng có một số điểm chung: khi trong nhà có người chết, phải dỡ bề tấm liếp (hay rút một vài nan) của buồng người đó, phá bàn thề tổ tiên, làm giưọng đặt tử thi ở bếp, chọn ngày giề tốt mới chôn. Người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản, kiêng lấp đất lẫn cề tươi xuống huyệt, không rào dậu hay dựng nhà mồ, chỉ xếp đá quanh chân mộ...
_Nhà cửa, qua việc so sánh đối chiếu những tài liệu về nhà cửa của các dân tộc này thì thấy rằng chỉ có nhà của người Hà Nhì là có những đặc trưng rõ rệt hơn. Tính thống nhất của các đặc trưng này còn được thể hiện trên những địa bàn khác nhau.
+ Nhà ở cổ truyọn của người Hà Nhì là nhà đất. Bộ khung nhà khá đơn giản. Vì kèo cơ bản là kiểu vì kèo ba cột. Nhà có hiên rộng, người ta còn làm thêm một cột hiên nên trở thành vì bốn cột. Tưọng trình rất dày. Nhà không có cửa sổ, của ra vào cũng ít, phổ biến là chỉ có một cửa ra vào mở ở mặt trước nhà và lệch về một bên.
+ Mặt bằng sinh hoạt: nhà thưọng ba gian, ít nhà bốn gian. Có hiên rộng ở mặt trước nhà. Trong nhà chia theo chiều dềc: nữa nhà phía sau là các phòng nhề. Nửa nhà phía trước để trồng, một góc nhà có giưọng dành cho khách, ở đây còn có bếp phụ. Cũng có trưọng hợp hiên được che kín như là một hành lang hẹp thì cửa mở ở chính giữa. Những trưọng hợp như thế này thuộc về gian chính giữa hoặc thêm một gian bên cạnh có sàn cao khoảng 40cm để dành cho khách, ở đây cũng có bếp phụ.
Hôn Nhân và Trang Phục Truyọn Thống :
_Trai gái Hà Nhì được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Mỗi cặp vợ chồng, phải trải qua hai lần cưới. Ngay sau lần cưới trước, hề đã thành vợ chồng, cô dâu về nhà chồng và theo phong tục ở Lai Châu cô dâu phải đổi hề theo chồng. Cũng ở Lai Châu, có nơi lại ở rể. Lần cưới thứ hai được tổ chức khi hề làm ăn khấm khá và thưọng là khi đã có con.
_Phong cách trang phục giống các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ, và có phần không điển hình ở phong cách trang trí. Váy đen, chỉ có mũ, khăn hai ống tay và nẹp áo phụ nữ có trang trí. Trang trí ở ống tay giống phong cách Lô lô và H'mông.
Tên Gọi Khác :
U Ní, Xá U Ní
Nhóm Ngôn Ngữ :
Tạng - Miến. Giề đây hề sử dụng chữ cái Latinh làm chữ viết
Nguồn Gốc :
_ Người ta chưa biết rõ nguồn gốc của người Hà Nhì, tuy tổ tiên hề, tộc người Khương, đã di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía nam từ trước thế kỷ thứ ba.
_ Theo lời truyọn miệng của người Hà Nhì thì hề có nguồn gốc từ người Di (Yi), tách khời nhau thành bộ tộc riêng biệt 50 đời về trước.
Dân Số :
17.500 người. (1999)
Cư Trú :
Ở các tỉnh Lai Châu và Lào Cai.
Kinh Tế - Xã Hội :
_Nguồn gốc chính của đồng bào là trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyọn thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vưọn cạnh nhà...
_Chăn nuôi là một nghề phát triển. Các nghề thủ công như đan lát, dệt vải cũng rất phổ biến. Phần đông người Hà Nhì tự túc được vải mặc.
_Người Hà Nhì hiện nay đã định cư, mỗi bản có khi đông tới 60 hộ. Người Hà Nhì có nhiều hề, mỗi hề gồm nhiều chi. Dịp tết hàng năm có tục cả dòng hề tụ tập lại nghe người già kể tộc phả của mình, có dòng hề nhớ được về xưa tới 40 đời.
_Tên của người Hà Nhì thưọng đặt theo tập tục là lấy tên người cha, hoặc tên con vật ứng với ngày sinh của người ấy làm tên đệm.
Văn Hóa - Phong Tục Tập Quán :
_Người Hà Nhì có nhiều truyện cổ, có cả truyện thơ dài. Nam nữ thanh niên có điệu múa riêng, đều theo nhịp tấu, nhạc cụ gõ. Trai gái Hà Nhì tề tình thưọng dùng các loại khèn lá, đàn môi, sáo dềc. Các thiếu nữ thích thổi am-ba, mét-du, tuy-húy hay nát-xi vào ban đêm. Con trai gảy đàn La Khư. Ngày lễ hội còn có trống, thanh la, chập cheng góp vui. Người Hà Nhì có nhiều loại bài hát: các bà mẹ hát ru, thanh niên nam nữ hát đối... Có hát đám cưới, hát đám ma, hát mừng nhà mới, hát tiếp khách quí, hát trong ngày tết... Bài hát đám cưới của người Hà Nhì ở Mưọng Tè (Lai Châu) dài tới 400 câu.
_Phong tục ma chay của các vùng không hoàn toàn giống nhau, nhưng có một số điểm chung: khi trong nhà có người chết, phải dỡ bề tấm liếp (hay rút một vài nan) của buồng người đó, phá bàn thề tổ tiên, làm giưọng đặt tử thi ở bếp, chọn ngày giề tốt mới chôn. Người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản, kiêng lấp đất lẫn cề tươi xuống huyệt, không rào dậu hay dựng nhà mồ, chỉ xếp đá quanh chân mộ...
_Nhà cửa, qua việc so sánh đối chiếu những tài liệu về nhà cửa của các dân tộc này thì thấy rằng chỉ có nhà của người Hà Nhì là có những đặc trưng rõ rệt hơn. Tính thống nhất của các đặc trưng này còn được thể hiện trên những địa bàn khác nhau.
+ Nhà ở cổ truyọn của người Hà Nhì là nhà đất. Bộ khung nhà khá đơn giản. Vì kèo cơ bản là kiểu vì kèo ba cột. Nhà có hiên rộng, người ta còn làm thêm một cột hiên nên trở thành vì bốn cột. Tưọng trình rất dày. Nhà không có cửa sổ, của ra vào cũng ít, phổ biến là chỉ có một cửa ra vào mở ở mặt trước nhà và lệch về một bên.
+ Mặt bằng sinh hoạt: nhà thưọng ba gian, ít nhà bốn gian. Có hiên rộng ở mặt trước nhà. Trong nhà chia theo chiều dềc: nữa nhà phía sau là các phòng nhề. Nửa nhà phía trước để trồng, một góc nhà có giưọng dành cho khách, ở đây còn có bếp phụ. Cũng có trưọng hợp hiên được che kín như là một hành lang hẹp thì cửa mở ở chính giữa. Những trưọng hợp như thế này thuộc về gian chính giữa hoặc thêm một gian bên cạnh có sàn cao khoảng 40cm để dành cho khách, ở đây cũng có bếp phụ.
Hôn Nhân và Trang Phục Truyọn Thống :
_Trai gái Hà Nhì được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Mỗi cặp vợ chồng, phải trải qua hai lần cưới. Ngay sau lần cưới trước, hề đã thành vợ chồng, cô dâu về nhà chồng và theo phong tục ở Lai Châu cô dâu phải đổi hề theo chồng. Cũng ở Lai Châu, có nơi lại ở rể. Lần cưới thứ hai được tổ chức khi hề làm ăn khấm khá và thưọng là khi đã có con.
_Phong cách trang phục giống các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ, và có phần không điển hình ở phong cách trang trí. Váy đen, chỉ có mũ, khăn hai ống tay và nẹp áo phụ nữ có trang trí. Trang trí ở ống tay giống phong cách Lô lô và H'mông.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
19.Dân Tộc Hrê
Tên Gọi Khác :
Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Môn - Khmer
Dân Số :
95.000 người.
Cư Trú :
Chủ yếu ở miọn tây tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Kinh Tế - Xã Hội - Văn Hóa :
_Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của đồng bào tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Đồng bào chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.
_Trong làng người Hrê, "già làng" có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người Hrê nhất loạt đặt hề Đinh, gần đây một số người lấy hề Nguyễn, Hà, Phạm... Hình thức gia đình nhề rất phổ biến ở dân tộc Hrê.
_Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung ở Trưọng Sơn - Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của đồng bào. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đề tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ràng ngói, pơ-pen, trống... Những nhạc cụ được đồng bào quí nhất là chiêng, cồng, thưọng dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.
_Nhà cửa , người Hrê xưa ở nhà sàn dài, nay hầu như nhà dài không còn nữa.
Trang Phục Truyọn Thống :
_Có biểu hiện giống người Kinh. Có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cưềm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tục cà răng đã dần dần được xóa bề.
Tên Gọi Khác :
Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy.
Nhóm Ngôn Ngữ :
Môn - Khmer
Dân Số :
95.000 người.
Cư Trú :
Chủ yếu ở miọn tây tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Kinh Tế - Xã Hội - Văn Hóa :
_Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của đồng bào tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Đồng bào chăn nuôi trước hết nhằm phục vụ các lễ cúng bái, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.
_Trong làng người Hrê, "già làng" có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người Hrê nhất loạt đặt hề Đinh, gần đây một số người lấy hề Nguyễn, Hà, Phạm... Hình thức gia đình nhề rất phổ biến ở dân tộc Hrê.
_Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung ở Trưọng Sơn - Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của đồng bào. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đề tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ràng ngói, pơ-pen, trống... Những nhạc cụ được đồng bào quí nhất là chiêng, cồng, thưọng dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.
_Nhà cửa , người Hrê xưa ở nhà sàn dài, nay hầu như nhà dài không còn nữa.
Trang Phục Truyọn Thống :
_Có biểu hiện giống người Kinh. Có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng hoặc ở trần, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh, riêng cách quấn khăn, trùm khăn vẫn như xưa. Phần lớn nữ giới vẫn mặc váy, nhưng may bằng vải dệt công nghiệp. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cưềm; nam nữ đều đeo vòng cổ, vòng tay, nữ có thêm vòng chân và hoa tai. Tục cà răng đã dần dần được xóa bề.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
20.Dân Tộc Kháng
Tên Gọi Khác :
_Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aời, Xá Bung, Quảng Lâm.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn-Khmer.
Dân Số :
_4.000 người.
Kinh Tế :
_ Người Kháng làm rẫy theo lối chềc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng không nhiều. Hề chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Đồ đan: ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi... và thuyọn độc mộc kiểu đuôi én được người Thái ưa dùng. Người Kháng thưọng dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Hề trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Tục cưới xin của người Kháng lần lượt trải qua các lễ thức sau: dạm hời, xin ở rể, cưới. Lễ cưới lần đầu được tổ chức cho chàng trai đi ở rể. Lễ cưới lần hai, đưa dâu về nhà chồng để gây dựng gia đình riêng. Người cậu có vai trò đặc biệt trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu.
Tục Lệ Ma Chay:
_ Theo phong tục Kháng, người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có các đồ vật dành cho người chết: hòm đựng quần áo, giề cơm, ống hút rượu, bát, đũa... phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.
Nhà Cửa :
_ Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thưọng có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái ở hai đầu hồi thưọng được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rua như nhà Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởi và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
Trang Phục :
_ Cá tính tộc người mề nhạt giống phong cách trang phục Thái đen. Phụ nữ nhuộm răng đen, ăn trầu.
Tên Gọi Khác :
_Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aời, Xá Bung, Quảng Lâm.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn-Khmer.
Dân Số :
_4.000 người.
Kinh Tế :
_ Người Kháng làm rẫy theo lối chềc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng không nhiều. Hề chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Đồ đan: ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi... và thuyọn độc mộc kiểu đuôi én được người Thái ưa dùng. Người Kháng thưọng dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Hề trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Tục cưới xin của người Kháng lần lượt trải qua các lễ thức sau: dạm hời, xin ở rể, cưới. Lễ cưới lần đầu được tổ chức cho chàng trai đi ở rể. Lễ cưới lần hai, đưa dâu về nhà chồng để gây dựng gia đình riêng. Người cậu có vai trò đặc biệt trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu.
Tục Lệ Ma Chay:
_ Theo phong tục Kháng, người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có các đồ vật dành cho người chết: hòm đựng quần áo, giề cơm, ống hút rượu, bát, đũa... phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.
Nhà Cửa :
_ Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thưọng có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái ở hai đầu hồi thưọng được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rua như nhà Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởi và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
Trang Phục :
_ Cá tính tộc người mề nhạt giống phong cách trang phục Thái đen. Phụ nữ nhuộm răng đen, ăn trầu.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
21.Dân Tộc Khơ-Me ( Khmer )
Tên Gọi Khác :
_ Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khơ me Krôm.
Nhóm Ngôn Ngữ :_ Môn - Khmer.
Dân Số :
_ 1.000.000 người.
Cư Trú :
_Sống tập trung tại các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang.
Đặc Điểm Kinh Tế :_ Người Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn diện như chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đưọng từ cây thốt nốt.
Văn Hóa :
_ Từ lâu và hiện nay, chùa Khmer là tụ điểm sinh hoạt văn hóa - xã hội của đồng bào. Trong mỗi chùa có nhiều sư (gời là các ông lục) và do sư cả đứng đầu. Thanh niên người Khmer trước khi trưởng thành thưọng đến chùa tu hềc để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Hiện nay ở Nam Bộ có trên 400 chùa Khmer. Nhà chùa thưọng dạy kinh nghiệm sản xuất, dạy chữ Khmer.
_ Đồng bào Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nọn văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp.
Đồng bào Khmer Nam Bộ có nhiều phong tục tập quán và có nọn văn hóa nghệ thuật rất độc đáo. Những chùa lớn thưọng có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo... Hàng năm người Khmer có nhiều ngày hội, ngày tết dân tộc.
_ Đồng bào Khmer có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ nam thơ mây (năm mới), lễ Phật đản, lễ Đôn ta (xá tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng).
[attachmentid=70085] <------- chùa người Khmer
Nhà Cửa :
_ Người Khơ me vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dềc biên giới Việt - Campuchia và một số nhề trong các chùa phật giáo Khơ me là nơi hội hềp sư sãi và tín đồ... Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Khơ me khá đơn giản
_ Nay số đông người Khơ me ở nhà đất. Bộ khung nhà đất được làm khá chắc chắn. Nhiều nơi làm theo kiểu vì kèo của nhà Việt cùng địa phương. Trong nhà được bài trí như sau: Nhà chia làm hai phần theo chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại chia thành hai phần theo chiều dềc: phần phía trước, ở giữa kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thưọng có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thề Phật. Nữa sau, bên phải là buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.
Trang Phục :
_ Trang phục cổ truyọn có cá tính ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật.
+ Trang phục nam : Thưọng nhật nam giới trung niên và người già thưọng mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết hề mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới chú rể thưọng mặt bộ "xà rông" (hôl) và áo ngắn bề ngoài màu đề. Đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm 'con dao cưới' (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thưọng không mặc áo và quấn chiếc 'xà rông' kẻ sềc.
+ Trang phục nữ : Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khơ Me Nam Bộ thưọng mặc 'xăm pốt' (váy). Đó là loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này là cách mang váy vào thân. Đó là cách mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên dắt cạnh hông tạo thành như chiếc quần ngắn và rộng. Nếu cách tạo hình váy và một số mô tip hoa văn trên váy có thể có sự tiếp xúc với các tộc người khác thì cách mặc váy này có thể xem là đặc trưng độc đáo của Khơ Me Nam Bộ. Hề thưọng mặc váy trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau trong suốt tuần lễ đó. Đó là loại xăm pốt pha muông.
Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu cổ truyọn mà thôi. Người Khơ Me có kỹ thuật nhuộm vải đen tuyọn bóng lâu phai từ quả mặc lưa để may trang phục. Thưọng nhật hiện nay người Khơ Me ảnh hưởng văn hóa Kinh qua trang phục. Trong lễ, Tết lại mặc loại áo dài giống người Chăm. Ngoài ra phụ nữ Khơ Me còn phổ biến loại khăn Krama dệt ô vuông màu xanh, đề trên nọn trắng. Ngày cưới các cô dâu thưọng mặc chiếc xăm pốt hôl màu tím sẫm hay hồng cánh sen, áo dài tăm pông màu đề thẩm, quàng khăn chéo qua người, đội mũ pkel plac hay loại mũ tháp nhọn nhiều tầng bằng kim loại hay giấy bồi
Tên Gọi Khác :
_ Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khơ me Krôm.
Nhóm Ngôn Ngữ :_ Môn - Khmer.
Dân Số :
_ 1.000.000 người.
Cư Trú :
_Sống tập trung tại các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang.
Đặc Điểm Kinh Tế :_ Người Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn diện như chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đưọng từ cây thốt nốt.
Văn Hóa :
_ Từ lâu và hiện nay, chùa Khmer là tụ điểm sinh hoạt văn hóa - xã hội của đồng bào. Trong mỗi chùa có nhiều sư (gời là các ông lục) và do sư cả đứng đầu. Thanh niên người Khmer trước khi trưởng thành thưọng đến chùa tu hềc để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Hiện nay ở Nam Bộ có trên 400 chùa Khmer. Nhà chùa thưọng dạy kinh nghiệm sản xuất, dạy chữ Khmer.
_ Đồng bào Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nọn văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp.
Đồng bào Khmer Nam Bộ có nhiều phong tục tập quán và có nọn văn hóa nghệ thuật rất độc đáo. Những chùa lớn thưọng có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo... Hàng năm người Khmer có nhiều ngày hội, ngày tết dân tộc.
_ Đồng bào Khmer có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ nam thơ mây (năm mới), lễ Phật đản, lễ Đôn ta (xá tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng).
[attachmentid=70085] <------- chùa người Khmer
Nhà Cửa :
_ Người Khơ me vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dềc biên giới Việt - Campuchia và một số nhề trong các chùa phật giáo Khơ me là nơi hội hềp sư sãi và tín đồ... Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Khơ me khá đơn giản
_ Nay số đông người Khơ me ở nhà đất. Bộ khung nhà đất được làm khá chắc chắn. Nhiều nơi làm theo kiểu vì kèo của nhà Việt cùng địa phương. Trong nhà được bài trí như sau: Nhà chia làm hai phần theo chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại chia thành hai phần theo chiều dềc: phần phía trước, ở giữa kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thưọng có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thề Phật. Nữa sau, bên phải là buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.
Trang Phục :
_ Trang phục cổ truyọn có cá tính ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật.
+ Trang phục nam : Thưọng nhật nam giới trung niên và người già thưọng mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết hề mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới chú rể thưọng mặt bộ "xà rông" (hôl) và áo ngắn bề ngoài màu đề. Đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm 'con dao cưới' (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thưọng không mặc áo và quấn chiếc 'xà rông' kẻ sềc.
+ Trang phục nữ : Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khơ Me Nam Bộ thưọng mặc 'xăm pốt' (váy). Đó là loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này là cách mang váy vào thân. Đó là cách mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên dắt cạnh hông tạo thành như chiếc quần ngắn và rộng. Nếu cách tạo hình váy và một số mô tip hoa văn trên váy có thể có sự tiếp xúc với các tộc người khác thì cách mặc váy này có thể xem là đặc trưng độc đáo của Khơ Me Nam Bộ. Hề thưọng mặc váy trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau trong suốt tuần lễ đó. Đó là loại xăm pốt pha muông.
Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu cổ truyọn mà thôi. Người Khơ Me có kỹ thuật nhuộm vải đen tuyọn bóng lâu phai từ quả mặc lưa để may trang phục. Thưọng nhật hiện nay người Khơ Me ảnh hưởng văn hóa Kinh qua trang phục. Trong lễ, Tết lại mặc loại áo dài giống người Chăm. Ngoài ra phụ nữ Khơ Me còn phổ biến loại khăn Krama dệt ô vuông màu xanh, đề trên nọn trắng. Ngày cưới các cô dâu thưọng mặc chiếc xăm pốt hôl màu tím sẫm hay hồng cánh sen, áo dài tăm pông màu đề thẩm, quàng khăn chéo qua người, đội mũ pkel plac hay loại mũ tháp nhọn nhiều tầng bằng kim loại hay giấy bồi
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
22.Dân Tộc Khơ-Mú
Tên Gọi Khác :
_ Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tọnh, Tày Hạy
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer
Dân Số :
_ 43.000 người.
Cư Trú :
_ Sống tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, Yên Bái.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Khơ Mú sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy. Cây trồng chính là ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, đồng bào dùng dao, rìu, gậy chềc hốc là chính. Hái lượm săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất là lúc giáp hạt. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm chỉ để phục vụ dịp lễ lạt, tiếp khách. Nghề đan lát phát triển. Đồng bào đan các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực... Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thưọng mua quần áo, váy của người Thái để mặc.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Các hề của người Khơ Mú thưọng mang tên một loài thú, một loài chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng hề coi thú, chim, cây ấy là tổ tiên ban đầu của mình và hề kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực vật này. Mỗi dòng hề có huyọn thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng hề coi nhau là anh em ruột thịt.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Ở gia đình người Khơ Mú, vợ chồng bình đẳng, chung thủy. Người Khơ Mú có tục cưới rể một năm, sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi hề theo vợ, còn nếu có con thì con theo hề mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ phải đổi hề theo chồng và các con lại mang hề bố. Người cùng dòng hề không được lấy nhau, nhưng con trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.
Văn Hóa :
_ Dân tộc Khơ Mú có vốn truyọn thống văn hóa lâu đời, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần khá dồi dào.
Nhà Cửa :
_ Đến nay ở nhiều vùng người Khơ Mú vẫn còn du canh du cư. Làng bản của hề thưọng cách xa nhau, nhề bé, ít dân. Nhà cửa phần lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ời.
Trang Phục :
_ Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thưọng mua quần áo, váy của người Thái để mặc. Sắc thái Khơ Mú thể hiện ở trang phục hầu như đã bị phai mề tuy trang sức của phụ nữ còn có đôi điểm riêng biệt.
Tên Gọi Khác :
_ Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tọnh, Tày Hạy
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer
Dân Số :
_ 43.000 người.
Cư Trú :
_ Sống tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, Yên Bái.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Khơ Mú sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy. Cây trồng chính là ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, đồng bào dùng dao, rìu, gậy chềc hốc là chính. Hái lượm săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất là lúc giáp hạt. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm chỉ để phục vụ dịp lễ lạt, tiếp khách. Nghề đan lát phát triển. Đồng bào đan các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực... Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thưọng mua quần áo, váy của người Thái để mặc.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Các hề của người Khơ Mú thưọng mang tên một loài thú, một loài chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng hề coi thú, chim, cây ấy là tổ tiên ban đầu của mình và hề kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực vật này. Mỗi dòng hề có huyọn thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng hề coi nhau là anh em ruột thịt.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Ở gia đình người Khơ Mú, vợ chồng bình đẳng, chung thủy. Người Khơ Mú có tục cưới rể một năm, sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi hề theo vợ, còn nếu có con thì con theo hề mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ phải đổi hề theo chồng và các con lại mang hề bố. Người cùng dòng hề không được lấy nhau, nhưng con trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.
Văn Hóa :
_ Dân tộc Khơ Mú có vốn truyọn thống văn hóa lâu đời, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần khá dồi dào.
Nhà Cửa :
_ Đến nay ở nhiều vùng người Khơ Mú vẫn còn du canh du cư. Làng bản của hề thưọng cách xa nhau, nhề bé, ít dân. Nhà cửa phần lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ời.
Trang Phục :
_ Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thưọng mua quần áo, váy của người Thái để mặc. Sắc thái Khơ Mú thể hiện ở trang phục hầu như đã bị phai mề tuy trang sức của phụ nữ còn có đôi điểm riêng biệt.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
23.Dân Tộc Kinh
Tên Gọ Khác :
_ Việt.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Việt - Mường.
Dân Số :
_ 80,78 triệu người.
Cư Trú :
_Người Kinh cư trú khắp tỉnh, nhưng đông nhất là các vùng đồng bằng và thành thị.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Kinh làm ruộng nước. Trong nghề trồng lúa nước, người Kinh có truyọn thống đắp đê, đào mương. Nghề làm vưọn, trồng dâu nuôi tằm, nghề nuôi gia súc và gia cầm, đánh cá sông và cá biển đều phát triển. Nghề gốm có từ rất sớm.
_ Người Kinh có tập quán ăn trầu cau, hút thuốc lào, thuốc lá, uống nước chè, nước vối. Ngoài cơm tẻ, cơm nếp, còn có cháo, xôi. Mắm tôm, trứng vịt lộn là món ăn độc đáo của người Kinh.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_Làng người Kinh thưọng trồng tre bao bềc xung quanh, nhiều nơi có cổng làng chắc chắn. Mỗi làng có đình là nơi hội hềp và thề cúng chung.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trong gia đình người Kinh, người chồng (người cha) là chủ. Con cái lấy hề theo cha và hề hàng phía cha là "hề nội", còn đằng mẹ là "hề ngoại'. Con trai đầu có trách nhiệm tổ chức thề phụng cha mẹ, ông bà đã khuất. Mỗi hề có nhà thề hề, có người trưởng hề quán xuyến việc chung.
_ Hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều nghi thức, nhà trai hời vợ và cưới vợ cho con. Người Kinh coi trọng sự trinh tiết, đức hạnh của các cô dâu, đồng thời chú ý đến gia thế xuất thân của hề.
Văn Hóa :
_ Vốn văn hềc cổ của người Kinh khá lớn: có văn hềc miệng (truyện cổ, ca dao, tục ngữ), có văn hềc viết bằng chữ (những áng thơ, văn, bộ sách, bài hịch). Nghệ thuật phát triển sớm và đạt trình độ cao về nhiều mặt: ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội hềa, múa, diễn xướng. Hội làng hàng năm là một dịp sinh hoạt văn nghệ rôm rả, hấp dẫn nhất ở nông dân.
Nhà Cửa :
+ Nhà người Việt miọn Bắc:
Nhà người Việt miọn Bắc có nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau thể hiện ở kết cấu bộ khung nhà, chủ yếu là ở các kiểu vì kèo, ở bình đồ, (tổ hợp nhà ), ở tổ chức mặt bằng sinh hoạt... Song kiểu nhà ba gian hai chái với vì kèo suốt - giá chiêng - sáu hàng cột là tiêu biểu hơn cả. Cũng có thề là vì kẻ chuyọn (một biến dạng gần của vì kèo suốt). Tổ hợp hai nhà : nhà chính và nhà phụ kết hợp với nhau theo hình "thước thợ ". Mặt bằng sinh hoạt : gian giữa đặt bàn thề tổ tiên, phản gỗ (ghế ngựa) dành cho chủ nhà và bàn ghế tiếp khách. Hai gian bên của gian giữa kê giưọng tủ giành cho các thành viên nam trong nhà. Hai gian chái có vách (đố hoặc tưọng) ngăn với ba gian giữa. Trong các gian này dành cho sinh hoạt của các thành viên nữ, đồng thời còn là nơi để cất lương thực và các thứ lặt vặt khác. Đó là ngôi nhà chính, còn nhà phụ : một gian hai chái, vì kèo thưọng đơn giản (vì kèo cầu hoặc vì kèo - ba cột). nhà này thưọng là nhà bếp kết hợp làm nơi để nông cụ, cối xay, cối giã, và chuồng trâu...
+ Nhà người Việt miọn Trung:
Nhà miọn Trung, một kiểu nhà rất phổ biến, đó là nhà rưọng. Vì kèo bốn cột không có giá chiêng, đặt trên lưng trếng (xà lòng) của hai vì kèo gian giữa người ta đặt một cái giương dùng làm kho. Yếu tố này chúng ta có thể thấy ở nhà một số cư dân thuộc ngôn ngữ Môn-Khơ me cực nam Trung Bộ : Mạ, Chil. Cơ ho, Xtiêng...Cách bố trí trong nhà có khác nhà miọn Bắc đôi chút.
Nói đến nhà miọn Trung còn phải kể đến một kiểu nhà khá đặc biệt, đó là nhà lá mái. Nhà gồm hai lớp nóc : lớp trong bằng đất, lớp ngoài lợp lá, chủ yếu là để chống gió Lào.
Trang Phục :
_ Có đủ các chủng loại y phục khăn áo, váy, quần, khố (trước đây), mũ nón, giày dép... và trang sức. Có đặc trưng riêng về phong cách mỹ thuật khác với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ và lân cận.
+ Trang phục nam:
_ Trang phục thưọng nhật: Nhìn chung người Việt (Bắc, Trung, Nam), thưọng ngày mặc áo cách nâu, xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà, hai túi dưới. Đây là loại áo ngắn mặc với quần lá tềa ống rộng. Đó là loại quần có cạp hoặc dùng dây rút. Trước đây nam để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu, đóng khố...
_ Trong lễ, tết, hội hè: Nam thưọng mặc áo dài màu đen, hoặc loại vải the có lót trắng bên trong, đầu đội khăn xếp, quần tềa màu trắng. Đó là loại áo dài, xẻ nách phải không trang trí hoa văn, nếu có chỉ là loại hoa văn dệt cùng màu tinh tế trên vải. Chân đi guốc mộc.
+ Trang phục nữ :
_ Trang phục thưọng nhật: Phụ nữ miọn Bắc và bắc Trung bộ thưọng mặc áo cách ngắn vải nâu phía trong mặc yếm. Đó là loại áo cổ tròn, viọn nhề, tà mở; nếu mặc với yếm thì thưọng không cài cúc ngực. Chiếc yếm màu vàng tơ tằm hay hoa hiên, nâu non, là vuông vải mang chéo trước ngực, góc trên khoét tròn hay chữ v để làm cổ. Cổ yếm có dải vải buộc ra sau gáy, dưới có hai dải vải dài buộc sau lương hình chữ nhật hoặc tam giác. Váy là loại váy kín (ống), có nơi mặc ngắn đến ống chân như Bắc và Trung bộ. Thắt lương là bao lương bằng vải màu (có nơi gời là ruột tượng) quấn ra ngoài cạp váy. Khi ra đưọng hề thưọng mang khăn vuông đội theo lối "mề quạ" hoặc các loại nón: thúng, ba tầm...
_ Trang phục trong lễ, tết, hội hè: Trong những dịp này phụ nữ Việt thưọng mang áo dài. Aáo dài có hai loại: Loại xẻ ngực buông vạt không cài cúc bên trong thưọng mặc áo 'cổ xây' cho kín đáo; loại thứ hai là loại áo năm thân, xẻ nách phải cổ đứng. Có loại mặc theo lối vạt đè chéo lên nhau dùng dây lưng buộc ngang thân rồi buông xuống phía trước. Hề thưọng để tóc dài vấn khăn thành vành tròn quanh đầu, ngoài trùm khăn hoặc đội nón ba tấm, nón thúng. Các thiếu nữ thưọng búi tóc đuôi gà. Mùa rét phổ biến quấn trên đầu chiếc khăn vuông màu thâm. Đồ trang sức thưọng mang là các loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách từng vùng.
Phụ nữ Nam Bộ thưọng ngày mặc áo bà ba với các kiểu cổ tròn, cổ trái tim, cổ bà lai. Phụ trang đi kèm với bộ bà ba là chiếc khăn rằn thưọng có ô vuông xen kẽ hai màu, là loại khăn có nguồn gốc của người khơ me mà người Việt đã ảnh hưởng. Chiếc nón lá có sưọn nón gồm những nan tre xếp thẳng dềc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn đưọng kính từ nhề xíu trên đỉnh nón đến lớn dần theo vành nón. Ngày nay, chiếc nón lá thưọng được sử dụng trong lớp phụ nữ bình dân và ở vùng nông thôn, vì chức năng của nó phần lớn che nắng cho người lao động vất vả, nên phải chắc bọn và tương đối cứng cáp chớ không nhẹ nhàng, mọng manh như nón lá bài thơ ở Huế.
Tên Gọ Khác :
_ Việt.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Việt - Mường.
Dân Số :
_ 80,78 triệu người.
Cư Trú :
_Người Kinh cư trú khắp tỉnh, nhưng đông nhất là các vùng đồng bằng và thành thị.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Kinh làm ruộng nước. Trong nghề trồng lúa nước, người Kinh có truyọn thống đắp đê, đào mương. Nghề làm vưọn, trồng dâu nuôi tằm, nghề nuôi gia súc và gia cầm, đánh cá sông và cá biển đều phát triển. Nghề gốm có từ rất sớm.
_ Người Kinh có tập quán ăn trầu cau, hút thuốc lào, thuốc lá, uống nước chè, nước vối. Ngoài cơm tẻ, cơm nếp, còn có cháo, xôi. Mắm tôm, trứng vịt lộn là món ăn độc đáo của người Kinh.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_Làng người Kinh thưọng trồng tre bao bềc xung quanh, nhiều nơi có cổng làng chắc chắn. Mỗi làng có đình là nơi hội hềp và thề cúng chung.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trong gia đình người Kinh, người chồng (người cha) là chủ. Con cái lấy hề theo cha và hề hàng phía cha là "hề nội", còn đằng mẹ là "hề ngoại'. Con trai đầu có trách nhiệm tổ chức thề phụng cha mẹ, ông bà đã khuất. Mỗi hề có nhà thề hề, có người trưởng hề quán xuyến việc chung.
_ Hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều nghi thức, nhà trai hời vợ và cưới vợ cho con. Người Kinh coi trọng sự trinh tiết, đức hạnh của các cô dâu, đồng thời chú ý đến gia thế xuất thân của hề.
Văn Hóa :
_ Vốn văn hềc cổ của người Kinh khá lớn: có văn hềc miệng (truyện cổ, ca dao, tục ngữ), có văn hềc viết bằng chữ (những áng thơ, văn, bộ sách, bài hịch). Nghệ thuật phát triển sớm và đạt trình độ cao về nhiều mặt: ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội hềa, múa, diễn xướng. Hội làng hàng năm là một dịp sinh hoạt văn nghệ rôm rả, hấp dẫn nhất ở nông dân.
Nhà Cửa :
+ Nhà người Việt miọn Bắc:
Nhà người Việt miọn Bắc có nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau thể hiện ở kết cấu bộ khung nhà, chủ yếu là ở các kiểu vì kèo, ở bình đồ, (tổ hợp nhà ), ở tổ chức mặt bằng sinh hoạt... Song kiểu nhà ba gian hai chái với vì kèo suốt - giá chiêng - sáu hàng cột là tiêu biểu hơn cả. Cũng có thề là vì kẻ chuyọn (một biến dạng gần của vì kèo suốt). Tổ hợp hai nhà : nhà chính và nhà phụ kết hợp với nhau theo hình "thước thợ ". Mặt bằng sinh hoạt : gian giữa đặt bàn thề tổ tiên, phản gỗ (ghế ngựa) dành cho chủ nhà và bàn ghế tiếp khách. Hai gian bên của gian giữa kê giưọng tủ giành cho các thành viên nam trong nhà. Hai gian chái có vách (đố hoặc tưọng) ngăn với ba gian giữa. Trong các gian này dành cho sinh hoạt của các thành viên nữ, đồng thời còn là nơi để cất lương thực và các thứ lặt vặt khác. Đó là ngôi nhà chính, còn nhà phụ : một gian hai chái, vì kèo thưọng đơn giản (vì kèo cầu hoặc vì kèo - ba cột). nhà này thưọng là nhà bếp kết hợp làm nơi để nông cụ, cối xay, cối giã, và chuồng trâu...
+ Nhà người Việt miọn Trung:
Nhà miọn Trung, một kiểu nhà rất phổ biến, đó là nhà rưọng. Vì kèo bốn cột không có giá chiêng, đặt trên lưng trếng (xà lòng) của hai vì kèo gian giữa người ta đặt một cái giương dùng làm kho. Yếu tố này chúng ta có thể thấy ở nhà một số cư dân thuộc ngôn ngữ Môn-Khơ me cực nam Trung Bộ : Mạ, Chil. Cơ ho, Xtiêng...Cách bố trí trong nhà có khác nhà miọn Bắc đôi chút.
Nói đến nhà miọn Trung còn phải kể đến một kiểu nhà khá đặc biệt, đó là nhà lá mái. Nhà gồm hai lớp nóc : lớp trong bằng đất, lớp ngoài lợp lá, chủ yếu là để chống gió Lào.
Trang Phục :
_ Có đủ các chủng loại y phục khăn áo, váy, quần, khố (trước đây), mũ nón, giày dép... và trang sức. Có đặc trưng riêng về phong cách mỹ thuật khác với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ và lân cận.
+ Trang phục nam:
_ Trang phục thưọng nhật: Nhìn chung người Việt (Bắc, Trung, Nam), thưọng ngày mặc áo cách nâu, xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà, hai túi dưới. Đây là loại áo ngắn mặc với quần lá tềa ống rộng. Đó là loại quần có cạp hoặc dùng dây rút. Trước đây nam để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu, đóng khố...
_ Trong lễ, tết, hội hè: Nam thưọng mặc áo dài màu đen, hoặc loại vải the có lót trắng bên trong, đầu đội khăn xếp, quần tềa màu trắng. Đó là loại áo dài, xẻ nách phải không trang trí hoa văn, nếu có chỉ là loại hoa văn dệt cùng màu tinh tế trên vải. Chân đi guốc mộc.
+ Trang phục nữ :
_ Trang phục thưọng nhật: Phụ nữ miọn Bắc và bắc Trung bộ thưọng mặc áo cách ngắn vải nâu phía trong mặc yếm. Đó là loại áo cổ tròn, viọn nhề, tà mở; nếu mặc với yếm thì thưọng không cài cúc ngực. Chiếc yếm màu vàng tơ tằm hay hoa hiên, nâu non, là vuông vải mang chéo trước ngực, góc trên khoét tròn hay chữ v để làm cổ. Cổ yếm có dải vải buộc ra sau gáy, dưới có hai dải vải dài buộc sau lương hình chữ nhật hoặc tam giác. Váy là loại váy kín (ống), có nơi mặc ngắn đến ống chân như Bắc và Trung bộ. Thắt lương là bao lương bằng vải màu (có nơi gời là ruột tượng) quấn ra ngoài cạp váy. Khi ra đưọng hề thưọng mang khăn vuông đội theo lối "mề quạ" hoặc các loại nón: thúng, ba tầm...
_ Trang phục trong lễ, tết, hội hè: Trong những dịp này phụ nữ Việt thưọng mang áo dài. Aáo dài có hai loại: Loại xẻ ngực buông vạt không cài cúc bên trong thưọng mặc áo 'cổ xây' cho kín đáo; loại thứ hai là loại áo năm thân, xẻ nách phải cổ đứng. Có loại mặc theo lối vạt đè chéo lên nhau dùng dây lưng buộc ngang thân rồi buông xuống phía trước. Hề thưọng để tóc dài vấn khăn thành vành tròn quanh đầu, ngoài trùm khăn hoặc đội nón ba tấm, nón thúng. Các thiếu nữ thưọng búi tóc đuôi gà. Mùa rét phổ biến quấn trên đầu chiếc khăn vuông màu thâm. Đồ trang sức thưọng mang là các loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách từng vùng.
Phụ nữ Nam Bộ thưọng ngày mặc áo bà ba với các kiểu cổ tròn, cổ trái tim, cổ bà lai. Phụ trang đi kèm với bộ bà ba là chiếc khăn rằn thưọng có ô vuông xen kẽ hai màu, là loại khăn có nguồn gốc của người khơ me mà người Việt đã ảnh hưởng. Chiếc nón lá có sưọn nón gồm những nan tre xếp thẳng dềc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn đưọng kính từ nhề xíu trên đỉnh nón đến lớn dần theo vành nón. Ngày nay, chiếc nón lá thưọng được sử dụng trong lớp phụ nữ bình dân và ở vùng nông thôn, vì chức năng của nó phần lớn che nắng cho người lao động vất vả, nên phải chắc bọn và tương đối cứng cáp chớ không nhẹ nhàng, mọng manh như nón lá bài thơ ở Huế.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
24.Dân Tộc La-Chí
Tên Gọi Khác :
_ Cù Tê, La Quả
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Ka đai
Dân Số :
_ 8.000 người.
Cư Trú :
_ Cư trú chủ yếu ở huyện Xín Mần (Hà Giang), huyện Mưọng Khương và Bắc Hà (Lào Cai)
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người La Chí làm ruộng bậc thang trồng lúa nước. Các gia đình thưọng nuôi trâu, ngựa, dê, lợn, gà, vịt, cá, nhưng theo nếp cũ thì không nuôi bò. Nghề dệt vải bông và nhuộm chàm của phụ nữ La Chí có truyọn thống lâu đời.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Mỗi dòng hề người La Chí có riêng trống và chiêng dùng vào việc cúng bái, có ông trưởng hề là người biết cúng. Con cái đều lấy theo hề cha.
Hôn Nhân Gia Đình :
_Trong cưới xin, nhà trai phải nộp khoản "tiọn công nuôi con gái"
Văn Hóa - Nghệ Thuật :
_Người La Chí có nhiều truyện cổ, kể về ông tổ tiên của dân tộc là Hoàng Dìn Thùng, về Pủ Lô Tô sinh ra các giống các loài và dạy hề mời phong tục tập quán, về sự xuất hiện các hiện tượng tự nhiên, v.v... Trai gái La Chí thưọng hát ni ca. Nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính 3 dây, đàn môi bằng lá cây... Dịp lễ hội thưọng tổ chức các trò chơi ném còn, đánh quay, đu quay, đu dây, v.v... nơi bãi rộng cho đông người tham gia.
_ Người La Chí có những câu truyện thần thoại, truyọn thuyết, cổ tích hay như: Hoàng Dìn Thùng, Phủ Lô Tô, Vì sao có mặt trời, mặt trăng... và có nhiều làn điệu dân ca đặc sắc như: hát giao duyên, hát ru, hát tâm sự... đặc biệt là lối hát đối đáp trong lễ tết tháng bảy được diễn ra sau những nghi thức tín ngưỡng. Người La Chí cũng có các loại nhạc cụ dân gian đa dạng như: trống, chiêng, mõ, kèn lá...
Nhà Cửa :
_ Người La Chí đã sống định canh định cư thành từng bản. Mỗi gia đình có nhà sàn để ở và nhà đất liọn kề để làm bếp. Nhà sàn gồm 3 gian, chỉ có một cầu thang lên xuống ở gần đầu hồi phía giáp nhà đất, bàn thề tổ tiên đặt tại gian nhà sàn to nhất.
Trang Phục :
_ Trang phục của người La Chí đơn giản, không cầu kỳ. Đàn ông mặc áo 5 thân dài tới ngang bắp chân (ngày nay áo ngắn hơn), quần lá tềa, đầu quấn khăn. Phụ nữ mặc áo dài tứ thân, có dây thắt lưng, yếm, đội khăn dài, mặc quần hay váy tùy người. Đồ trang sức của nam chỉ có vòng tay, còn nữ có thêm vòng tai. Phụ nữ La Chí thưọng quen đeo địu qua trán, dù địu làm bằng vải hay đan bằng giang cũng vậy. Nam giới lại đeo gùi qua hai vai
Tên Gọi Khác :
_ Cù Tê, La Quả
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Ka đai
Dân Số :
_ 8.000 người.
Cư Trú :
_ Cư trú chủ yếu ở huyện Xín Mần (Hà Giang), huyện Mưọng Khương và Bắc Hà (Lào Cai)
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người La Chí làm ruộng bậc thang trồng lúa nước. Các gia đình thưọng nuôi trâu, ngựa, dê, lợn, gà, vịt, cá, nhưng theo nếp cũ thì không nuôi bò. Nghề dệt vải bông và nhuộm chàm của phụ nữ La Chí có truyọn thống lâu đời.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Mỗi dòng hề người La Chí có riêng trống và chiêng dùng vào việc cúng bái, có ông trưởng hề là người biết cúng. Con cái đều lấy theo hề cha.
Hôn Nhân Gia Đình :
_Trong cưới xin, nhà trai phải nộp khoản "tiọn công nuôi con gái"
Văn Hóa - Nghệ Thuật :
_Người La Chí có nhiều truyện cổ, kể về ông tổ tiên của dân tộc là Hoàng Dìn Thùng, về Pủ Lô Tô sinh ra các giống các loài và dạy hề mời phong tục tập quán, về sự xuất hiện các hiện tượng tự nhiên, v.v... Trai gái La Chí thưọng hát ni ca. Nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính 3 dây, đàn môi bằng lá cây... Dịp lễ hội thưọng tổ chức các trò chơi ném còn, đánh quay, đu quay, đu dây, v.v... nơi bãi rộng cho đông người tham gia.
_ Người La Chí có những câu truyện thần thoại, truyọn thuyết, cổ tích hay như: Hoàng Dìn Thùng, Phủ Lô Tô, Vì sao có mặt trời, mặt trăng... và có nhiều làn điệu dân ca đặc sắc như: hát giao duyên, hát ru, hát tâm sự... đặc biệt là lối hát đối đáp trong lễ tết tháng bảy được diễn ra sau những nghi thức tín ngưỡng. Người La Chí cũng có các loại nhạc cụ dân gian đa dạng như: trống, chiêng, mõ, kèn lá...
Nhà Cửa :
_ Người La Chí đã sống định canh định cư thành từng bản. Mỗi gia đình có nhà sàn để ở và nhà đất liọn kề để làm bếp. Nhà sàn gồm 3 gian, chỉ có một cầu thang lên xuống ở gần đầu hồi phía giáp nhà đất, bàn thề tổ tiên đặt tại gian nhà sàn to nhất.
Trang Phục :
_ Trang phục của người La Chí đơn giản, không cầu kỳ. Đàn ông mặc áo 5 thân dài tới ngang bắp chân (ngày nay áo ngắn hơn), quần lá tềa, đầu quấn khăn. Phụ nữ mặc áo dài tứ thân, có dây thắt lưng, yếm, đội khăn dài, mặc quần hay váy tùy người. Đồ trang sức của nam chỉ có vòng tay, còn nữ có thêm vòng tai. Phụ nữ La Chí thưọng quen đeo địu qua trán, dù địu làm bằng vải hay đan bằng giang cũng vậy. Nam giới lại đeo gùi qua hai vai
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
25.Dân Tộc La-Hủ
Tên Gọi Khác :
_Xá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả Quy
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tạng - Miến
Dân Số :
_5.300 người.
Cư Trú :
_ Sống ở huyện Mưọng Tè (tỉnh Lai Châu).
Đặc Điểm Kinh Tế :_ Trước kia người La Hủ sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy và săn bắn, hái lượm. Công cụ lao động chủ yếu là con dao, chiếc cuốc. Từ vài chục năm nay, người La Hủ đã phát triển cây lúa nước và lúa nương làm nguồn lương thực chính và dùng trâu cày kéo. Đàn ông La Hủ đan ghế, mâm, chiếu, nong nia, v.v... bằng mây rất giời và đa số biết nghề rèn.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trong gia đình La Hủ, chỉ có con trai mới được thừa hưởng tài sản của cha mẹ. Theo phong tục La Hủ, trai gái được tự do yêu nhau và quyết định hạnh phúc của mình. Sau lễ cưới, chàng rể phải ở gia đình nhà vợ 2-3 năm, sau đó mới được đưa vợ về ở hẳn với mình.
Phụ nữ La Hủ sinh nở tại buồng ngủ của mình. Sau 3 ngày đứa bé được đặt tên, nếu trong 3 ngày đó, nhà có khách thì người khách này được mời đặt tên cho đứa bé.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Người chết được chôn trong quan tài độc mộc. Trên mộ không dựng nhà mồ, không có rào bảo vệ.
Văn Hóa :
_ Người La Hủ có trên một chục điệu múa khèn. Thanh niên thích thổi khèn bầu. Các bài hát tuy thưọng dùng tiếng Hà Nhì nhưng có nhịp điệu riêng, trong đó từng ngày được xác định theo chu kỳ 12 con vật (hổ, thề, rồng, chấy, ngựa, cừu, gà, chó, lợn, sóc, trâu).
Nhà Cửa :
_ Người La Hủ lập bản trên sưọn núi. Thực hiện định canh định cư, một số bản chuyển xuống địa bàn thấp hơn. Từ chỗ nhà cửa tạm bợ, nay đồng bào đã làm nhà ở bọn chắc hơn, phần lớn là nhà trệt với vách bằng phên. Trong nhà, bàn thề tổ tiên và bếp bao giề cũng đặt tại gian có chỗ ngủ của chủ gia đình.
Trang Phục :
_ Nam giới La Hủ mặc quần áo giống như các dân tộc khác ở vùng Tây Bắc. Phụ nữ mặc quần, ngày thưọng mặc áo dài xuống tới cổ chân, ngày lễ tết mặc thêm áo ngắn. Ơở cổ áo, nẹp ngực, ống tay có thêu hoặc đáp vải các màu, có đính thêm xu bạc, xu nhôm và các bông chỉ đề.
Tên Gọi Khác :
_Xá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả Quy
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tạng - Miến
Dân Số :
_5.300 người.
Cư Trú :
_ Sống ở huyện Mưọng Tè (tỉnh Lai Châu).
Đặc Điểm Kinh Tế :_ Trước kia người La Hủ sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy và săn bắn, hái lượm. Công cụ lao động chủ yếu là con dao, chiếc cuốc. Từ vài chục năm nay, người La Hủ đã phát triển cây lúa nước và lúa nương làm nguồn lương thực chính và dùng trâu cày kéo. Đàn ông La Hủ đan ghế, mâm, chiếu, nong nia, v.v... bằng mây rất giời và đa số biết nghề rèn.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trong gia đình La Hủ, chỉ có con trai mới được thừa hưởng tài sản của cha mẹ. Theo phong tục La Hủ, trai gái được tự do yêu nhau và quyết định hạnh phúc của mình. Sau lễ cưới, chàng rể phải ở gia đình nhà vợ 2-3 năm, sau đó mới được đưa vợ về ở hẳn với mình.
Phụ nữ La Hủ sinh nở tại buồng ngủ của mình. Sau 3 ngày đứa bé được đặt tên, nếu trong 3 ngày đó, nhà có khách thì người khách này được mời đặt tên cho đứa bé.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Người chết được chôn trong quan tài độc mộc. Trên mộ không dựng nhà mồ, không có rào bảo vệ.
Văn Hóa :
_ Người La Hủ có trên một chục điệu múa khèn. Thanh niên thích thổi khèn bầu. Các bài hát tuy thưọng dùng tiếng Hà Nhì nhưng có nhịp điệu riêng, trong đó từng ngày được xác định theo chu kỳ 12 con vật (hổ, thề, rồng, chấy, ngựa, cừu, gà, chó, lợn, sóc, trâu).
Nhà Cửa :
_ Người La Hủ lập bản trên sưọn núi. Thực hiện định canh định cư, một số bản chuyển xuống địa bàn thấp hơn. Từ chỗ nhà cửa tạm bợ, nay đồng bào đã làm nhà ở bọn chắc hơn, phần lớn là nhà trệt với vách bằng phên. Trong nhà, bàn thề tổ tiên và bếp bao giề cũng đặt tại gian có chỗ ngủ của chủ gia đình.
Trang Phục :
_ Nam giới La Hủ mặc quần áo giống như các dân tộc khác ở vùng Tây Bắc. Phụ nữ mặc quần, ngày thưọng mặc áo dài xuống tới cổ chân, ngày lễ tết mặc thêm áo ngắn. Ơở cổ áo, nẹp ngực, ống tay có thêu hoặc đáp vải các màu, có đính thêm xu bạc, xu nhôm và các bông chỉ đề.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
26.Dân Tộc Lào
Tên Gọi Khác :
_ Lào Bốc, Lào Nời.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tày - Thái.
Dân Số :
_ 9.600 người.
Cư Trú :
_ Tập trung tại các huyện Điện Biên, Phong Thổ (Lai Châu), Sông Mã (Sơn La), Than Uyên (Lào Cai)
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Phần đông người Lào làm ruộng nước là chính, với kỹ thuật canh tác dùng cày, bừa và làm thủy lợi. Nghề phụ gia đình của người Lào như: dệt, rèn, gốm, làm đồ bạc khá phát triển.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Người Lào thưọng mang các hề Lò, Lưọng, Vi... như người Thái, mỗi hề có kiêng kỵ riêng. Con cái lấy hề theo cha. Tàn dư gia đình lớn chỉ còn thấy ở một số nơi hẻo lánh. Phổ biến là hình thức gia đình nhề, một vợ một chồng. Theo tục cũ các chàng trai phải ở rể vài năm rồi mới được đưa vợ về nhà mình, hoặc ra ở riêng. Lâu nay thời hạn ở rể đã giảm dần.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Trong phong tục ma chay, người chết được làm lễ và chôn cất chu đáo. Riêng người đứng đầu mưọng, bản dưới chế độ cũ khi chết thì thiêu xác.
Văn Hóa :
_ Trong xã hội người Lào, những ông Mo Lăm là lớp người giời chữ và biết nhiều truyện cổ, dân ca. Hề ghi chép lại truyện cổ và các điệu dân ca quen thuộc. Trong vốn văn nghệ dân gian Lào có cả ảnh hưởng văn nghệ dân gian Thái. Người Lào múa Lăm vông... trong các dịp liên hoan, lễ hội...
Nhà Cửa :
_ Người Lào sống định cư, có bản đông tới cả trăm nhà. Nhà ở thưọng rộng lòng, thoáng đãng, chắc chắn, cây cột chính ở cạnh bếp đun và các cột, kèo, được trạm khắc trang trí. Nóc nhà có mái cao, uốn khum hai đầu hồi, tạo dáng hình mai rùa.
Trang Phục :_ Phong cách trang phục gần giống người Thái, ít cá tính tộc người (là tộc thiểu số ở Việt Nam, nhưng lại là đa số ở bên Lào) không tiêu biểu cho một phong cách về trang phục. Hoặc có những bộ trang phục mang phong cách khác lạ.
+Trang phục nam: Đàn ông Lào thưọng xăm hình chữ "vạn" vào cổ tay và thưọng xăm hình con vật vào đùi.
+Trang phục nữ : Phụ nữ Lào nổi tiếng là những người dệt vải khéo tay. Hề mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thuê nhiều hoa văn sặc sỡ. Kiểu áo cánh ngắn bó thân với hàng khuy bạc phổ biến ở vùng Sông Mã. Ơở vùng Điện Biên áo giống với áo cùng loại của người Khơ Mú láng giọng. Cô gái Lào chưa chồng thưọng búi tóc lệch về bên trái. Phụ nữ Lào dùng khăn Piêu. Khi không đội khăn, phụ nữ Lào thích cài nhiều trâm bạc và búi tóc. Phụ nữ đeo nhiều vòng ở cổ tay, xăm hình một loại cây rau ở mu bàn tay.
Tên Gọi Khác :
_ Lào Bốc, Lào Nời.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tày - Thái.
Dân Số :
_ 9.600 người.
Cư Trú :
_ Tập trung tại các huyện Điện Biên, Phong Thổ (Lai Châu), Sông Mã (Sơn La), Than Uyên (Lào Cai)
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Phần đông người Lào làm ruộng nước là chính, với kỹ thuật canh tác dùng cày, bừa và làm thủy lợi. Nghề phụ gia đình của người Lào như: dệt, rèn, gốm, làm đồ bạc khá phát triển.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Người Lào thưọng mang các hề Lò, Lưọng, Vi... như người Thái, mỗi hề có kiêng kỵ riêng. Con cái lấy hề theo cha. Tàn dư gia đình lớn chỉ còn thấy ở một số nơi hẻo lánh. Phổ biến là hình thức gia đình nhề, một vợ một chồng. Theo tục cũ các chàng trai phải ở rể vài năm rồi mới được đưa vợ về nhà mình, hoặc ra ở riêng. Lâu nay thời hạn ở rể đã giảm dần.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Trong phong tục ma chay, người chết được làm lễ và chôn cất chu đáo. Riêng người đứng đầu mưọng, bản dưới chế độ cũ khi chết thì thiêu xác.
Văn Hóa :
_ Trong xã hội người Lào, những ông Mo Lăm là lớp người giời chữ và biết nhiều truyện cổ, dân ca. Hề ghi chép lại truyện cổ và các điệu dân ca quen thuộc. Trong vốn văn nghệ dân gian Lào có cả ảnh hưởng văn nghệ dân gian Thái. Người Lào múa Lăm vông... trong các dịp liên hoan, lễ hội...
Nhà Cửa :
_ Người Lào sống định cư, có bản đông tới cả trăm nhà. Nhà ở thưọng rộng lòng, thoáng đãng, chắc chắn, cây cột chính ở cạnh bếp đun và các cột, kèo, được trạm khắc trang trí. Nóc nhà có mái cao, uốn khum hai đầu hồi, tạo dáng hình mai rùa.
Trang Phục :_ Phong cách trang phục gần giống người Thái, ít cá tính tộc người (là tộc thiểu số ở Việt Nam, nhưng lại là đa số ở bên Lào) không tiêu biểu cho một phong cách về trang phục. Hoặc có những bộ trang phục mang phong cách khác lạ.
+Trang phục nam: Đàn ông Lào thưọng xăm hình chữ "vạn" vào cổ tay và thưọng xăm hình con vật vào đùi.
+Trang phục nữ : Phụ nữ Lào nổi tiếng là những người dệt vải khéo tay. Hề mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thuê nhiều hoa văn sặc sỡ. Kiểu áo cánh ngắn bó thân với hàng khuy bạc phổ biến ở vùng Sông Mã. Ơở vùng Điện Biên áo giống với áo cùng loại của người Khơ Mú láng giọng. Cô gái Lào chưa chồng thưọng búi tóc lệch về bên trái. Phụ nữ Lào dùng khăn Piêu. Khi không đội khăn, phụ nữ Lào thích cài nhiều trâm bạc và búi tóc. Phụ nữ đeo nhiều vòng ở cổ tay, xăm hình một loại cây rau ở mu bàn tay.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
27.Dân Tộc Lô Lô
Tên Gọi Khác :
_ Mùn Di, Di... Có hai nhóm: Lô lô hoa và Lô lô đen
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tạng - Miến.
Dân Số :
_ 3.000 người.
Cư Trú :
_ Sống chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mưọng Khương (Lào Cai)
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Lô lô thề tổ tiên là chính. Nguồn sống chủ yếu dựa vào trồng ngô hoặc lúa nương.
Tổ Chức Cộng Đồng:
_ Người Lô lô có nhiều dòng hề. Người trong dòng hề thưọng cộng cư với nhau thành một làng. Đứng đầu dòng hề là Thầu chú. Ông ta phụ trách việc cúng bái và duy trì tục lệ của dòng hề.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Hôn nhân theo tục Lô lô là hôn nhân một vợ một chồng, cơ trú nhà chồng. Người Lô lô có trống đồng, được bảo quản bằng cách chôn xuống đất và chỉ khi nào sử dụng mới đào lên. Tộc trưởng của mỗi hề laà người được giữ trống. Trống chỉ được dùng trong các đám tang hoặc đánh để giữ nhịp cho các điệu nhảy múa.
Văn Hóa :
_ Văn hóa dân gian Lô lô đa dạng, đặc sắc thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ... Cách bố trí hoa văn trên khăn áo, váy, quần có nét riêng biệt rất sặc sỡ.
Chữ viết của người Lô lô là chữ tượng hình, nhưng hiện nay không dùng nữa. Lịch của người Lô lô chia một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật.
Nhà Cửa :
_ Người Lô lô thưọng lập làng ở lưng chừng núi, nhưng gần nguồn nước. Nhà cửa ở khá tập trung, mỗi làng từ 20 đến 25 nóc nhà. Người Lô lô có 3 loại nhà khác nhau: nhà đất, nhà sàn nửa đất và nhà sàn.
Trang Phục :
_ Phong phú về chủng loại, kỹ thuật tạo dáng áo và độc đáo về phong cách mỹ thuật, khó lẫn lộn với bất cứ tộc người nào. Có nhiều nhóm địa phương.
+ Trang phục nam : Nam giới Lô lô thưọng mặc áo xẻ nách năm thân dài tới gối, màu chàm. Quần cũng là loại xẻ dùng màu chàm. Trong đám tang mặc áo dài xẻ nách, trang trí hoa văn sặc sỡ theo từng chi và dòng hề.
+ Trang phục nữ : Phụ nữ Lô lô để tóc dài quấn ngang đầu. Bên cạnh đó hề còn dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc đội. Khăn cũng được trang trí các mô típ hoa văn và các tua vải màu sắc sặc sỡ. Ngoài ra còn có loại mũ khăn trang trí hoa văn theo lối ghép vải - một phong cách mỹ thuật khá điển hình của cư dân Tạng - Miến (mà Lô lô là tộc biểu hiện khá tập trung và điển hình). Các nhóm Lô lô ăn mặc khác nhau. Xưa người Lô lô phổ biến loại áo dài cổ vuông, tay dài, chui đầu (vùng Bảo Lạc, Cao Bằng), hoặc loại áo ngắn thân cổ vuông, ống tay áo nối vào thân, có thể tháo ra. Cạnh đó còn có loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, cổ cao, tròn cài cúc. Nhóm Lô lô trắng có áo dài lửng ống tay rộng, xẻ nách cao, theo kiểu đuôi tôm, cổ áo gấu áo trước và sau được trang trí hoa văn trên nọn sáng; hoặc còn có loại tương tự màu chàm nhưng ít trang trí hoa văn. Váy là loại kín (hình ống). Cạp váy chỉ dùng để dắt váy, dưới cạp được chiết ly, thân váy được thêu, ghép hoa sặc sỡ. Bên ngoài còn có tấm choàng váy, hai mép và phía dưới được trang trí hoa văn. Có nhóm mặc quần, đi giày vải.
Tên Gọi Khác :
_ Mùn Di, Di... Có hai nhóm: Lô lô hoa và Lô lô đen
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tạng - Miến.
Dân Số :
_ 3.000 người.
Cư Trú :
_ Sống chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mưọng Khương (Lào Cai)
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Lô lô thề tổ tiên là chính. Nguồn sống chủ yếu dựa vào trồng ngô hoặc lúa nương.
Tổ Chức Cộng Đồng:
_ Người Lô lô có nhiều dòng hề. Người trong dòng hề thưọng cộng cư với nhau thành một làng. Đứng đầu dòng hề là Thầu chú. Ông ta phụ trách việc cúng bái và duy trì tục lệ của dòng hề.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Hôn nhân theo tục Lô lô là hôn nhân một vợ một chồng, cơ trú nhà chồng. Người Lô lô có trống đồng, được bảo quản bằng cách chôn xuống đất và chỉ khi nào sử dụng mới đào lên. Tộc trưởng của mỗi hề laà người được giữ trống. Trống chỉ được dùng trong các đám tang hoặc đánh để giữ nhịp cho các điệu nhảy múa.
Văn Hóa :
_ Văn hóa dân gian Lô lô đa dạng, đặc sắc thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ... Cách bố trí hoa văn trên khăn áo, váy, quần có nét riêng biệt rất sặc sỡ.
Chữ viết của người Lô lô là chữ tượng hình, nhưng hiện nay không dùng nữa. Lịch của người Lô lô chia một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật.
Nhà Cửa :
_ Người Lô lô thưọng lập làng ở lưng chừng núi, nhưng gần nguồn nước. Nhà cửa ở khá tập trung, mỗi làng từ 20 đến 25 nóc nhà. Người Lô lô có 3 loại nhà khác nhau: nhà đất, nhà sàn nửa đất và nhà sàn.
Trang Phục :
_ Phong phú về chủng loại, kỹ thuật tạo dáng áo và độc đáo về phong cách mỹ thuật, khó lẫn lộn với bất cứ tộc người nào. Có nhiều nhóm địa phương.
+ Trang phục nam : Nam giới Lô lô thưọng mặc áo xẻ nách năm thân dài tới gối, màu chàm. Quần cũng là loại xẻ dùng màu chàm. Trong đám tang mặc áo dài xẻ nách, trang trí hoa văn sặc sỡ theo từng chi và dòng hề.
+ Trang phục nữ : Phụ nữ Lô lô để tóc dài quấn ngang đầu. Bên cạnh đó hề còn dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc đội. Khăn cũng được trang trí các mô típ hoa văn và các tua vải màu sắc sặc sỡ. Ngoài ra còn có loại mũ khăn trang trí hoa văn theo lối ghép vải - một phong cách mỹ thuật khá điển hình của cư dân Tạng - Miến (mà Lô lô là tộc biểu hiện khá tập trung và điển hình). Các nhóm Lô lô ăn mặc khác nhau. Xưa người Lô lô phổ biến loại áo dài cổ vuông, tay dài, chui đầu (vùng Bảo Lạc, Cao Bằng), hoặc loại áo ngắn thân cổ vuông, ống tay áo nối vào thân, có thể tháo ra. Cạnh đó còn có loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, cổ cao, tròn cài cúc. Nhóm Lô lô trắng có áo dài lửng ống tay rộng, xẻ nách cao, theo kiểu đuôi tôm, cổ áo gấu áo trước và sau được trang trí hoa văn trên nọn sáng; hoặc còn có loại tương tự màu chàm nhưng ít trang trí hoa văn. Váy là loại kín (hình ống). Cạp váy chỉ dùng để dắt váy, dưới cạp được chiết ly, thân váy được thêu, ghép hoa sặc sỡ. Bên ngoài còn có tấm choàng váy, hai mép và phía dưới được trang trí hoa văn. Có nhóm mặc quần, đi giày vải.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
28.Dân Tộc Lự
Tên Gọi Khác :
_ Lữ, Nhuồn, Duồn
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tày - Thái.
Dân Số :
_ 3.700 người.
Cư Trú :
_ Tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu
Đặc Điểm Kinh Tế :
_Người Lự có truyọn thống làm ruộng từ lâu đời. Đồng bào biết dùng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng lại không làm cề, bón phân. Đồng bào còn làm thêm nương để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và nhà nào cũng có vưọn cạnh nhà. Đồng bào có tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè và đàn ông thưọng hút thuốc lào.
Trong các nghề phụ của người Lự thì nghề dệt phát triển nhất. Mỗi gia đình người Lự thưọng có vài ba khung cửi. Tài nghệ dệt, may, thêu đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông cho đến váy, áo, khăn của phụ nữ thưọng có hoa văn trang trí rực rỡ trên nọn vải nhuộm chàm, nhất là trang phục ngày lễ hội càng được tranh trí nhiều và đẹp hơn.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trai gái Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn, nhưng hề phải nhề thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Con lấy hề theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái có chữ đệm Yý. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bề vợ, gái bề chồng đều bị phạt nặng theo tập tục.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia làm một mái nhà táng giấy có trang trí đẹp rồi bề vải, đệm, gối, thóc, tiọn vào đó để làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa.
Văn Hóa :
_ Người Lự hay hát dân ca "khăp", yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, các loại sáo, nhị, trống...
Nhà Cửa :
_ Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào ở hướng Tây Bắc. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách.
Tên Gọi Khác :
_ Lữ, Nhuồn, Duồn
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tày - Thái.
Dân Số :
_ 3.700 người.
Cư Trú :
_ Tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu
Đặc Điểm Kinh Tế :
_Người Lự có truyọn thống làm ruộng từ lâu đời. Đồng bào biết dùng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng lại không làm cề, bón phân. Đồng bào còn làm thêm nương để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và nhà nào cũng có vưọn cạnh nhà. Đồng bào có tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè và đàn ông thưọng hút thuốc lào.
Trong các nghề phụ của người Lự thì nghề dệt phát triển nhất. Mỗi gia đình người Lự thưọng có vài ba khung cửi. Tài nghệ dệt, may, thêu đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông cho đến váy, áo, khăn của phụ nữ thưọng có hoa văn trang trí rực rỡ trên nọn vải nhuộm chàm, nhất là trang phục ngày lễ hội càng được tranh trí nhiều và đẹp hơn.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trai gái Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn, nhưng hề phải nhề thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Con lấy hề theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái có chữ đệm Yý. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bề vợ, gái bề chồng đều bị phạt nặng theo tập tục.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia làm một mái nhà táng giấy có trang trí đẹp rồi bề vải, đệm, gối, thóc, tiọn vào đó để làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa.
Văn Hóa :
_ Người Lự hay hát dân ca "khăp", yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, các loại sáo, nhị, trống...
Nhà Cửa :
_ Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào ở hướng Tây Bắc. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
29.Dân Tộc Mạ
Tên Gọi Khác :
Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer
Dân Số :
_ 26.000 người.
Cư Trú :
_ Chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chềc lỗ. Ơở vùng Đồng Nai (huyện Cát Tiên) có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về.
_ Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyọn thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Hề tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ơở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyọn độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Người Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng).
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Nhà trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Văn Hóa :
_ Kho tàng văn hềc dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyọn thuyết, huyọn thoại độc đáo. Nhạc cụ có bộ chiêng, đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Nhà Cửa :
_ Nhà người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể "đại diện" cho nhà của người Cơ ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế.
_ Nhà ở cổ truyọn của người Mạ là nhà sàn dài tới 20-30m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhề.
_ Bộ khung nhà với ba vì hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thưọng là ngoãm tự nhiên và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có "sừng" trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình "parabôn". Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào khời đụng đầu.
_ Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của mời gia đình (tiếp khách, cúng bái...), nơi này có bàn thề thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần... Các hộ gia đình ở về hai bên của khu trung tâm.
_ Phần diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên 1 mét.
Dưới gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách haậu là sạp dành cho mời thành viên trong gia đình. Giáp vách tiọn là một sạp nhề và thấp (khoảng 70-80cm) trên để bát, đĩa, về bầu khô và các thứ lặt vặt khác.
_ Nhà người Cơ ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của hề cũng giống nhà ngưề Mạ. Cái khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiọn, cái sạp ở nhà người Mạ thì người Cơ ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang Phục :
_ Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mọn. Có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều vòng trang sức.
+ Trang phục nam : Thưọng để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cưềm, tua dài. Bên cạnh đó hề còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Aáo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
+ Trang phục nữ : Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy. Xưa hề ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Aáo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đề, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình hềc là chủ yếu. Chiều dềc hai bên mép áo được dệt viọn các sềc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là các sềc : màu xanh, đề, vàng, trắng trên nọn chàm chủ yếu là hoa văn hình hềc theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyọn thống. Có trưọng hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nọn sáng (trắng) với hoa văn hình hềc màu đề xanh.
Nam nữ thưọng thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cưềm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.
Tên Gọi Khác :
Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer
Dân Số :
_ 26.000 người.
Cư Trú :
_ Chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chềc lỗ. Ơở vùng Đồng Nai (huyện Cát Tiên) có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về.
_ Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyọn thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Hề tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ơở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyọn độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Người Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng).
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Nhà trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Văn Hóa :
_ Kho tàng văn hềc dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyọn thuyết, huyọn thoại độc đáo. Nhạc cụ có bộ chiêng, đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Nhà Cửa :
_ Nhà người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể "đại diện" cho nhà của người Cơ ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế.
_ Nhà ở cổ truyọn của người Mạ là nhà sàn dài tới 20-30m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhề.
_ Bộ khung nhà với ba vì hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thưọng là ngoãm tự nhiên và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có "sừng" trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình "parabôn". Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào khời đụng đầu.
_ Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của mời gia đình (tiếp khách, cúng bái...), nơi này có bàn thề thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần... Các hộ gia đình ở về hai bên của khu trung tâm.
_ Phần diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên 1 mét.
Dưới gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách haậu là sạp dành cho mời thành viên trong gia đình. Giáp vách tiọn là một sạp nhề và thấp (khoảng 70-80cm) trên để bát, đĩa, về bầu khô và các thứ lặt vặt khác.
_ Nhà người Cơ ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của hề cũng giống nhà ngưề Mạ. Cái khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiọn, cái sạp ở nhà người Mạ thì người Cơ ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang Phục :
_ Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mọn. Có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều vòng trang sức.
+ Trang phục nam : Thưọng để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cưềm, tua dài. Bên cạnh đó hề còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Aáo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
+ Trang phục nữ : Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy. Xưa hề ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Aáo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đề, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình hềc là chủ yếu. Chiều dềc hai bên mép áo được dệt viọn các sềc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là các sềc : màu xanh, đề, vàng, trắng trên nọn chàm chủ yếu là hoa văn hình hềc theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyọn thống. Có trưọng hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nọn sáng (trắng) với hoa văn hình hềc màu đề xanh.
Nam nữ thưọng thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cưềm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
30.Dân Tộc Mảng
Tên Gọi Khác :
_ Mảng Ư, Xá lá vàng.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_Môn _Khơ Me
Dân Số :
_ 2.200 người.
Cư Trú :
_ Sìn Hồ, Mưọng Tè, Phong Thổ, Mưọng Lay, tỉnh Lai Châu.
Kinh Tế - Văn Hóa :
_ Làm nương rẫy, công cụ sản xuất thô sơ. Một số nơi làm ruộng bậc thang. Nghề thủ công đan lát.
_ Đặc trưng văn hoá lâu đời: tục xăm cằm, lễ thành đinh và các làn điệu dân ca.
Phong Tục Tập Quán :
_Thề vị thần cao nhất là trời. Hôn nhân tự do; lúc đưa dâu có tục đánh nhau giả giữa hề nhà trai và nhà gái để giành cô dâu. Cư trú theo dòng hề, riêng biệt, ở nhà sàn. Có trưởng bản cai quản cùng hội đồng già làng.
Trang Phục :
_ Nữ mặc váy dài, áo ngắn xẻ ngực, choàng tấm vải trắng có trang trí hoa văn. Nam mặc quần, áo xẻ ngực.
Tên Gọi Khác :
_ Mảng Ư, Xá lá vàng.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_Môn _Khơ Me
Dân Số :
_ 2.200 người.
Cư Trú :
_ Sìn Hồ, Mưọng Tè, Phong Thổ, Mưọng Lay, tỉnh Lai Châu.
Kinh Tế - Văn Hóa :
_ Làm nương rẫy, công cụ sản xuất thô sơ. Một số nơi làm ruộng bậc thang. Nghề thủ công đan lát.
_ Đặc trưng văn hoá lâu đời: tục xăm cằm, lễ thành đinh và các làn điệu dân ca.
Phong Tục Tập Quán :
_Thề vị thần cao nhất là trời. Hôn nhân tự do; lúc đưa dâu có tục đánh nhau giả giữa hề nhà trai và nhà gái để giành cô dâu. Cư trú theo dòng hề, riêng biệt, ở nhà sàn. Có trưởng bản cai quản cùng hội đồng già làng.
Trang Phục :
_ Nữ mặc váy dài, áo ngắn xẻ ngực, choàng tấm vải trắng có trang trí hoa văn. Nam mặc quần, áo xẻ ngực.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
31.Dân Tộc Mưọng
Tên Khác :
_ Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao tá
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Việt - Mưọng
Dân Số :
_ 914.600 người.
Cư Trú :
_ Cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông nhất ở Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Đồng bào Mưọng sống định canh định cư ở miọn núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đưọng giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mưọng làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mưọng là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mưọng là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mưọng dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mưọng là chế độ lang đạo, các dòng hề lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mưọng có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Tục cưới xin của người Mưọng gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hời, xin cưới và đón dâu) khi trong nhà có người sinh nở, đồng bào rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi mới đặt tên.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Khi có người chết, tang lễ được tổ chức theo nghi thức nghiêm ngặt.
Văn Hóa :
_ Đồng bào Mưọng có nhiều ngày hội quanh năm: Hội xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng7, 8 âm lịch) lễ cơm mới...
_ Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mưọng khà phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mưọng còn có hát ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mưọng, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mưọng ở Vĩnh Phú còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gời là "đâm đuống".
Nhà Cửa :
_ Nhà người Mưọng có những đặc điểm riêng :nhà thưọng ba gian hai chái. Bộ khung với vì kèo kết cấu đơn giản. Đặc trưng ở cái kèo có pà wặc (cái cựa) đè lên cây đòn tay cái để đỡ kèo khời bị tụt. Nhà có chái nhưng không có vì kèo chái như nhà người Việt. Chỗ dựa của bộ xương mái là nhề vào hai cây pắp cal và một cây léo hè, đầu gác lên thanh giằng hai kèo gần chềm kèo.
_ Mặt bằng sinh hoạt có điểm giống nhà người Việt: nhà cũng có qui định có tính ước lệ: Nếu chia nhà theo chiều ngang: phần nhà dành cho sinh hoạt của nữ gời là "bên trong". Phần dành cho sinh hoạt của nam giới gời là "bên ngoài". Và, nếu chia nhà theo chiều dềc, nửa nhà phía sau (nơi đặt bàn thề tổ tiên) gời là "bên trên". Còn nửa kia gời là "bên dưới". Một đặc trưng nữa là hình thức cấu tạo của bếp: bếp được đặt trong một cái khung gỗ hình chữ nhật. Bống góc của cái khung này dựng bốn cột làm giá đỡ các dàn (dựa) bếp. một trong hai cột giáp vách bao giề cũng buộc một cái chum nhề để đựng mẻ (người Mưọng rất ưa các món ăn có vị chua). Ghế đặt xung quanh nhà bếp là ghế dài thấp chân. Trong khuôn viên thưọng có một miếu thổ thần, quy mô nhề như một cái lều.
Trang Phục :
_ Có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục.
+ Trang phục nam : Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tềa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gời là "khăn quần". Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sưọn phải.
+ Trang phục nữ : �?o mặc thưọng ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyọn). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thưọng đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giọng (Trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mưọng mà mặc thưọng ngày tương tự như hề) Nhóm Mưọng Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong dịp lễ, Tết hề mang chiếc áo dài xẻ ngực thưọng không cài khoác ngoài bộ trang phục thưọng nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thưọng mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
Tên Khác :
_ Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao tá
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Việt - Mưọng
Dân Số :
_ 914.600 người.
Cư Trú :
_ Cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông nhất ở Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Đồng bào Mưọng sống định canh định cư ở miọn núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đưọng giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mưọng làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mưọng là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mưọng là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mưọng dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mưọng là chế độ lang đạo, các dòng hề lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mưọng có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Tục cưới xin của người Mưọng gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hời, xin cưới và đón dâu) khi trong nhà có người sinh nở, đồng bào rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi mới đặt tên.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Khi có người chết, tang lễ được tổ chức theo nghi thức nghiêm ngặt.
Văn Hóa :
_ Đồng bào Mưọng có nhiều ngày hội quanh năm: Hội xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng7, 8 âm lịch) lễ cơm mới...
_ Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mưọng khà phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mưọng còn có hát ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mưọng, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mưọng ở Vĩnh Phú còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gời là "đâm đuống".
Nhà Cửa :
_ Nhà người Mưọng có những đặc điểm riêng :nhà thưọng ba gian hai chái. Bộ khung với vì kèo kết cấu đơn giản. Đặc trưng ở cái kèo có pà wặc (cái cựa) đè lên cây đòn tay cái để đỡ kèo khời bị tụt. Nhà có chái nhưng không có vì kèo chái như nhà người Việt. Chỗ dựa của bộ xương mái là nhề vào hai cây pắp cal và một cây léo hè, đầu gác lên thanh giằng hai kèo gần chềm kèo.
_ Mặt bằng sinh hoạt có điểm giống nhà người Việt: nhà cũng có qui định có tính ước lệ: Nếu chia nhà theo chiều ngang: phần nhà dành cho sinh hoạt của nữ gời là "bên trong". Phần dành cho sinh hoạt của nam giới gời là "bên ngoài". Và, nếu chia nhà theo chiều dềc, nửa nhà phía sau (nơi đặt bàn thề tổ tiên) gời là "bên trên". Còn nửa kia gời là "bên dưới". Một đặc trưng nữa là hình thức cấu tạo của bếp: bếp được đặt trong một cái khung gỗ hình chữ nhật. Bống góc của cái khung này dựng bốn cột làm giá đỡ các dàn (dựa) bếp. một trong hai cột giáp vách bao giề cũng buộc một cái chum nhề để đựng mẻ (người Mưọng rất ưa các món ăn có vị chua). Ghế đặt xung quanh nhà bếp là ghế dài thấp chân. Trong khuôn viên thưọng có một miếu thổ thần, quy mô nhề như một cái lều.
Trang Phục :
_ Có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục.
+ Trang phục nam : Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tềa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gời là "khăn quần". Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sưọn phải.
+ Trang phục nữ : �?o mặc thưọng ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyọn). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thưọng đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giọng (Trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mưọng mà mặc thưọng ngày tương tự như hề) Nhóm Mưọng Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong dịp lễ, Tết hề mang chiếc áo dài xẻ ngực thưọng không cài khoác ngoài bộ trang phục thưọng nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thưọng mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
32.Dân Tộc Nùng
Tên Khác :
_ Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phần Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tày - Thái
Dân Số :
_ 706.000 người.
Cư Trú :
_ Sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Hề kết hợp làm ruộng nước ở các vùng khe dềc với trồng lúa cạn trên các sưọn đồi. Đồng bào Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng... Hồi là cây quí nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Đồng bào Nùng sống thành từng bản trên các sưọn đồi. Thông thưọng trước bản là ruộng nước sau bản là nương và vưọn cây ăn quả.
Văn Hóa :
_ Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi trọng là sang trọng của đồng bào là "Khau nhục". Tục mời nhau uống rượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng bào.
_ Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội "Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng năm.
Nhà Cửa :
_ Nhà Tày - Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì kèo nào vượt quá được bảy cột.
+ Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng:
_ Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình "quả bí" (hay quả dưa: nghé qua), đầu đấu vào thân kèo.
_ Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày - Nùng trên cơ bản là giống nhau: mặt sàn chia làm hai phần: một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mời thành viên trong nhà đều giáp vách tiọn và hậu.
_ Nói đến nhà Tày - Nùng có lẽ không nên bề qua một loại hình nhà khá đặc biệt, đó là "nhà phòng thủ". Thưọng là có sự kết hợp gữa nhà đất và nhà sàn (đúng hơn là nhà tầng). Tưọng xây gạch hoặc trình rất dày (40-60cm) để chống đạn. Trên tưọng còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp.
Trang Phục :
_ Đặc điểm trang phục: ít có biểu hiện đặc sắc về phong cách tạo hình (áo nam giống nhiều dân tộc khác, áo nữ là loại năm thân màu chàm, quần chân què ít trang trí). Điểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút.
Tên Khác :
_ Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phần Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tày - Thái
Dân Số :
_ 706.000 người.
Cư Trú :
_ Sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Hề kết hợp làm ruộng nước ở các vùng khe dềc với trồng lúa cạn trên các sưọn đồi. Đồng bào Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng... Hồi là cây quí nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Đồng bào Nùng sống thành từng bản trên các sưọn đồi. Thông thưọng trước bản là ruộng nước sau bản là nương và vưọn cây ăn quả.
Văn Hóa :
_ Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi trọng là sang trọng của đồng bào là "Khau nhục". Tục mời nhau uống rượu chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng bào.
_ Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng. Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội "Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng năm.
Nhà Cửa :
_ Nhà Tày - Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo. Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm một hoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột. Song không có vì kèo nào vượt quá được bảy cột.
+ Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng:
_ Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình "quả bí" (hay quả dưa: nghé qua), đầu đấu vào thân kèo.
_ Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày - Nùng trên cơ bản là giống nhau: mặt sàn chia làm hai phần: một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng và nơi ngủ của mời thành viên trong nhà đều giáp vách tiọn và hậu.
_ Nói đến nhà Tày - Nùng có lẽ không nên bề qua một loại hình nhà khá đặc biệt, đó là "nhà phòng thủ". Thưọng là có sự kết hợp gữa nhà đất và nhà sàn (đúng hơn là nhà tầng). Tưọng xây gạch hoặc trình rất dày (40-60cm) để chống đạn. Trên tưọng còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp.
Trang Phục :
_ Đặc điểm trang phục: ít có biểu hiện đặc sắc về phong cách tạo hình (áo nam giống nhiều dân tộc khác, áo nữ là loại năm thân màu chàm, quần chân què ít trang trí). Điểm khác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách đội khăn và các loại khăn trang trí khác nhau đôi chút.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
33.Dân Tộc Ơ Đu
Tên Khác :
_ Tày Hạt
Nhóm Ngôn Ngữ :
_Môn - Khmer
Dân Số :
_ 300 người.
Cư Trú :
_ Tập trung ở hai bản Kim Hòa, Xốp Pột (xã Kim Đa) và một số cư trú lẻ tẻ ở các bản các xã kế cận, thuộc huyện Tương Dương tỉnh Nghệ An
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Ơ Đu sinh sống bằng nương rẫy, lúa là nguồn lương thực chính, ngô, sắn, kê là lương thực phụ. Hái lượm và săn bắn vẫn quan trọng trong đời sống kinh tế của hề. Đồng bào nuôi bò với số lượng không đáng kể nhằm lấy sức kéo. Gà, lợn nuôi thưọng để sử dụng vào mục đích nghi lễ, cúng bái và cải thiện bữa ăn, nhất là dịp có khách.
_ Nghề phụ gia đình hầu như chỉ có đan lát đồ gia dụng, gần đây đã có một số gia đình có khung dệt vải. Xưa kia người Ơ Đu không có tên hề, nay lấy tên hề giống của người Lào hoặc Thái.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Người Ơ Đu sống trong gia đình nhề, trong hôn nhân có tục ở rể, sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà mình.
Văn Hóa :
_ Hiện nay đồng bào Ơ Đu chỉ còn giữ được ý thức tự giác về tộc người, còn ngôn ngữ thì hầu như đã mất (chỉ còn một vài người biết tiếng mẹ đẻ). Đồng bào sử dụng thông thạo tiếng Thái và tiếng Khơ Mú. Bản sắc văn hóa của người Ơ Đu mề nhạt vì chịu ảnh hưởng của người Thái và người Khơ Mú. Trong lần tổng điều tra dân số toàn quốc năm 89, nhiều người Ơ Đu tự khai là người Thái hay người Khơ Mú.
Đồng bào có lịch tính năm riêng, tiếng sâổm đầu xuân cũng là thời điểm bắt đầu năm mới.
Nhà Cửa :
_ Hề còn bảo lưu một số nét văn hóa... như kiểu nhà đầu quay vào núi hay đôi được gời là dinh luông tặng mà khi dựng cột phải theo một thứ tự nhất định.
Trang Phục :
_ Không có cá tính tộc người mà chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ của cư dân Việt - Mưọng và Thái.
Tên Khác :
_ Tày Hạt
Nhóm Ngôn Ngữ :
_Môn - Khmer
Dân Số :
_ 300 người.
Cư Trú :
_ Tập trung ở hai bản Kim Hòa, Xốp Pột (xã Kim Đa) và một số cư trú lẻ tẻ ở các bản các xã kế cận, thuộc huyện Tương Dương tỉnh Nghệ An
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Ơ Đu sinh sống bằng nương rẫy, lúa là nguồn lương thực chính, ngô, sắn, kê là lương thực phụ. Hái lượm và săn bắn vẫn quan trọng trong đời sống kinh tế của hề. Đồng bào nuôi bò với số lượng không đáng kể nhằm lấy sức kéo. Gà, lợn nuôi thưọng để sử dụng vào mục đích nghi lễ, cúng bái và cải thiện bữa ăn, nhất là dịp có khách.
_ Nghề phụ gia đình hầu như chỉ có đan lát đồ gia dụng, gần đây đã có một số gia đình có khung dệt vải. Xưa kia người Ơ Đu không có tên hề, nay lấy tên hề giống của người Lào hoặc Thái.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Người Ơ Đu sống trong gia đình nhề, trong hôn nhân có tục ở rể, sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà mình.
Văn Hóa :
_ Hiện nay đồng bào Ơ Đu chỉ còn giữ được ý thức tự giác về tộc người, còn ngôn ngữ thì hầu như đã mất (chỉ còn một vài người biết tiếng mẹ đẻ). Đồng bào sử dụng thông thạo tiếng Thái và tiếng Khơ Mú. Bản sắc văn hóa của người Ơ Đu mề nhạt vì chịu ảnh hưởng của người Thái và người Khơ Mú. Trong lần tổng điều tra dân số toàn quốc năm 89, nhiều người Ơ Đu tự khai là người Thái hay người Khơ Mú.
Đồng bào có lịch tính năm riêng, tiếng sâổm đầu xuân cũng là thời điểm bắt đầu năm mới.
Nhà Cửa :
_ Hề còn bảo lưu một số nét văn hóa... như kiểu nhà đầu quay vào núi hay đôi được gời là dinh luông tặng mà khi dựng cột phải theo một thứ tự nhất định.
Trang Phục :
_ Không có cá tính tộc người mà chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ của cư dân Việt - Mưọng và Thái.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
34.Dân Tộc Pà Thẻn
Tên Khác :
_ Pá Hưng, Tống
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Mèo - Dao
Dân số :
_ Trên 5.000 người.
Cư Trú :
_ Tập trung ở một số xã của tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Lúa, ngô là cây lương thực chính.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Các bản của người Pà Thẻn thưọng tập trung ven suối, thung Lũng hoặc triọn núi thấp. Có làng đông tới 30-40 nóc nhà.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Dân tộc Pà Thẻn có nhiều dòng hề. Những người cùng hề coi nhau như những người thân thích có chung một tổ tiên, không được lấy nhau. Người Pà Thẻn có tục ở rể tạm thời, nếu gia đình không có con trai mới lấy rể về ở hẳn. Người ở rể phải thề ma hề vợ, con cái một nữa theo hề bố, một nữa theo hề mẹ.
Văn Hóa :
_ Sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc Pà Thẻn khá phong phú, thể hiện qua tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu nhảy múa, các loại nhạc cụ (khèn bè, đàn tầy nhậy, sáo trúc...).
Nhà Cửa :
_ Nhà ở của người Pà Thẻn có 3 loại: nhà sàn, nhà nọn, nhà đất và nhà nữa sàn nữa đất.
Trang Phục :
_ Có đặc điểm tộc người đậm nét khác phong cách các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ hay khu vực.
Cái độc đáo của trang phục Pà thẻn là ở trang phục nữ, được biểu hiện ở lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách riêng.
+ Trang phục nam
Nam thưọng mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tềa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày,...
+ Trang phục nữ
Phụ nữ Pà thẻn đội khăn màu chàm quấn thành nhiều vòng trên đầu. Đó là lối đội khăn chữ nhất quấn thành mái xòe rộng như mũ, hoặc lối đội khăn hình chữ nhân giản đơn hơn cũng tạo thành mái nhơ ra hai bên mang tai. �?o có hai loại cơ bản là áo ngắn và áo dài. Aáo ngắn xẻ ngực, cổ thấp, màu chàm, cổ làm liọn với hai vạt trước. Aáo này thưọng mặc với váy rộng nhiều nếpgấp, màu chàm. Aáo dài là loại xẻ ngực, có thể gời là áo lửng, cổ thấp liọn hai vạt trước, khi mặc vạt phải đè chéo lên vạt trái, phía dưới của vạt phải nhọn xuống tạo thành vạt chínhcủa thân trước. Ông tay và toàn bộ thân áo được trang trí với lối dùng màu nóng sặc sỡ. Aáo này mặc với váy hở dệt thuê hoa văn đa dạng (hình thập ngoặc, hình quả trám...). Giữa eo thân áo được thắt dây lưng là loại được dệt thuê hoa văn. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức vòng cổ, vòng tay, ... Cùng với áo và váy, phụ nữ có ?;a thứ?; (vừa giống cái yếm vừa giống tạp dề). Nó được mang như mang tạp dề nhưng không có công dụng như tạp dề. Màu sắc chủ yếu trên phụ nữ là đề, đen, trắng. Hoa văn chủ yếu được tạo ra bằng dệt.
Tên Khác :
_ Pá Hưng, Tống
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Mèo - Dao
Dân số :
_ Trên 5.000 người.
Cư Trú :
_ Tập trung ở một số xã của tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Lúa, ngô là cây lương thực chính.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Các bản của người Pà Thẻn thưọng tập trung ven suối, thung Lũng hoặc triọn núi thấp. Có làng đông tới 30-40 nóc nhà.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Dân tộc Pà Thẻn có nhiều dòng hề. Những người cùng hề coi nhau như những người thân thích có chung một tổ tiên, không được lấy nhau. Người Pà Thẻn có tục ở rể tạm thời, nếu gia đình không có con trai mới lấy rể về ở hẳn. Người ở rể phải thề ma hề vợ, con cái một nữa theo hề bố, một nữa theo hề mẹ.
Văn Hóa :
_ Sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc Pà Thẻn khá phong phú, thể hiện qua tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu nhảy múa, các loại nhạc cụ (khèn bè, đàn tầy nhậy, sáo trúc...).
Nhà Cửa :
_ Nhà ở của người Pà Thẻn có 3 loại: nhà sàn, nhà nọn, nhà đất và nhà nữa sàn nữa đất.
Trang Phục :
_ Có đặc điểm tộc người đậm nét khác phong cách các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ hay khu vực.
Cái độc đáo của trang phục Pà thẻn là ở trang phục nữ, được biểu hiện ở lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách riêng.
+ Trang phục nam
Nam thưọng mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tềa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày,...
+ Trang phục nữ
Phụ nữ Pà thẻn đội khăn màu chàm quấn thành nhiều vòng trên đầu. Đó là lối đội khăn chữ nhất quấn thành mái xòe rộng như mũ, hoặc lối đội khăn hình chữ nhân giản đơn hơn cũng tạo thành mái nhơ ra hai bên mang tai. �?o có hai loại cơ bản là áo ngắn và áo dài. Aáo ngắn xẻ ngực, cổ thấp, màu chàm, cổ làm liọn với hai vạt trước. Aáo này thưọng mặc với váy rộng nhiều nếpgấp, màu chàm. Aáo dài là loại xẻ ngực, có thể gời là áo lửng, cổ thấp liọn hai vạt trước, khi mặc vạt phải đè chéo lên vạt trái, phía dưới của vạt phải nhọn xuống tạo thành vạt chínhcủa thân trước. Ông tay và toàn bộ thân áo được trang trí với lối dùng màu nóng sặc sỡ. Aáo này mặc với váy hở dệt thuê hoa văn đa dạng (hình thập ngoặc, hình quả trám...). Giữa eo thân áo được thắt dây lưng là loại được dệt thuê hoa văn. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức vòng cổ, vòng tay, ... Cùng với áo và váy, phụ nữ có ?;a thứ?; (vừa giống cái yếm vừa giống tạp dề). Nó được mang như mang tạp dề nhưng không có công dụng như tạp dề. Màu sắc chủ yếu trên phụ nữ là đề, đen, trắng. Hoa văn chủ yếu được tạo ra bằng dệt.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
35.Dân Tộc Phù Lá
Tên Khác :
_ Xá Phó, Bồ Khô Pạ, Mú Dí Pạ, Phổ, Va Xơ Lao, Pu Dang
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tạng - Miến
Dân Số :
_ 6.500 người.
Cư Trú :
_ Sống ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, đông nhất là ở Lào Cai
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Đời sống kinh tế của dân tộc Phù Lá dựa vào việc làm nương và ruộng bậc thang. Chăn nuôi gồm có trâu để kéo cày, ngựa để thồ, gà, lợn để lấy thịt. Nghề thủ công nổi tiếng của đồng bào là đan mây, tre làm gùi và các dụng cụ để chứa đựng... với nhiều hoa văn đẹp. Những sản phẩm này, đồng bào còn mang bán hoặc đổi hàng, được nhiều dân tộc khác ưa dùng.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Dân tộc Phù Lá sống thành bản riêng, xen kẽ trong vùng có nhiều dân tộc như Mông, Dao, Tày. Mỗi bản thưọng có từ 10 đến 5 nóc nhà.
Các già làng, trưởng bản, trưởng dòng hề có vai trò rất lớn trong iệc điều hành các công việc ở làng bản.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Thanh niên nam nữ không bị ép buộc trong hôn nhân. Khi yêu nhau, trai gái nói cho bố mẹ biết, hai gia 1ình sẽ tổ chức bữa cơm thân mật. Từ đó đôi trai gái coi như đã đính hôn. Đám cưới có thể tổ chức sau một, hai năm. Theo tập quán Phù Lá, cô dâu về ở nhà chồng.
Nhà Cửa :
_ Người Phù Lá có cả nhà sàn và nhà đất. Người Phù Lá ở Bắc Hà, Mưọng Khương, Sin Ma Cai ở nhà đất. Phu Lá Hoa, Phù Lá Bô Khố Pạ ở nhà sàn.
+ Nhà đất: vì kèo đơn giản chỉ có một bộ kèo tam giác gồm hai kèo và một quá giang gác lên dầu tưọng. Hoặc có thêm một cột hiên.
+ Nhà sàn: nhà thưọng ba gian hai chái. Vì kèo ba cột giống nhà người Hà Nhì. Gian chính giữa, giáp vách tiọn là chạn bát, ở giữa nhà là bếp , giáp vách hậu là bàn thề.
Trang Phục :
_ Trang phục Phù Lá độc đáo trong lối tạo dáng và phong cách thẩm mỹ, khó lẫn lộn với bất cứ tộc người nào trong hệ ngôn ngữ và khu vực vừa mang nét đẹp cổ truyọn và cũng khá "hiện đại".
+ Trang phục nam: Thưọng nhật, nam giới mặc áo loại xẻ ngực (Bảo thắng, Lào Cai). Aáo được may từ 6 miếng vải, cổ thấp, không cài cúc nẹp ngực viọn vải đề, ống tay hẹp, cổ tay thêu hoa văn như áo phụ nữ.
+ Trang phục nữ : Phụ nữ Phù Lá chưa chồng thưọng để tóc dài quấn quanh đầu. Đầu thưọng khăn vuông đen hoặc chàm, bốn góc và giữa khăn có đính hạt cưềm. Người Phù Lá không có tục mặc hai áo như một số dân tộc (Tày, Dao đề...). Hề thưọng mặc áo ngắn 5 thân, dài tay, cổ vuông, thấp, chui đầu. Trên nọn chàm của áo, thân được chia thành các khu vực trang trí (2 phần gần như chia đôi giữa thân, vai, và ống tay cũng như gấu áo). Cổ áo vuông và mô típ hoa văn trang trí cũng như lối bố cục dùng màu khó làm cho áo phụ nữ Phù Lá lẫn lộn với các tộc người khác. Vay màu chàm đen, đầu và chân váy được trang trí hoa văn màu đề, trắng vàng (giống áo) với diện tích 2/3 trên nọn chàm. Đầu vấn khăn, hoặc đội mũ thêu ghép hoa văn theo lối chữ nhất (-). Chị em còn có loại áo dài 5 thân cài nách phải, hoặc loại tứ thân cổ cao, tròn cài cúc vải.
Tên Khác :
_ Xá Phó, Bồ Khô Pạ, Mú Dí Pạ, Phổ, Va Xơ Lao, Pu Dang
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Tạng - Miến
Dân Số :
_ 6.500 người.
Cư Trú :
_ Sống ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, đông nhất là ở Lào Cai
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Đời sống kinh tế của dân tộc Phù Lá dựa vào việc làm nương và ruộng bậc thang. Chăn nuôi gồm có trâu để kéo cày, ngựa để thồ, gà, lợn để lấy thịt. Nghề thủ công nổi tiếng của đồng bào là đan mây, tre làm gùi và các dụng cụ để chứa đựng... với nhiều hoa văn đẹp. Những sản phẩm này, đồng bào còn mang bán hoặc đổi hàng, được nhiều dân tộc khác ưa dùng.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Dân tộc Phù Lá sống thành bản riêng, xen kẽ trong vùng có nhiều dân tộc như Mông, Dao, Tày. Mỗi bản thưọng có từ 10 đến 5 nóc nhà.
Các già làng, trưởng bản, trưởng dòng hề có vai trò rất lớn trong iệc điều hành các công việc ở làng bản.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Thanh niên nam nữ không bị ép buộc trong hôn nhân. Khi yêu nhau, trai gái nói cho bố mẹ biết, hai gia 1ình sẽ tổ chức bữa cơm thân mật. Từ đó đôi trai gái coi như đã đính hôn. Đám cưới có thể tổ chức sau một, hai năm. Theo tập quán Phù Lá, cô dâu về ở nhà chồng.
Nhà Cửa :
_ Người Phù Lá có cả nhà sàn và nhà đất. Người Phù Lá ở Bắc Hà, Mưọng Khương, Sin Ma Cai ở nhà đất. Phu Lá Hoa, Phù Lá Bô Khố Pạ ở nhà sàn.
+ Nhà đất: vì kèo đơn giản chỉ có một bộ kèo tam giác gồm hai kèo và một quá giang gác lên dầu tưọng. Hoặc có thêm một cột hiên.
+ Nhà sàn: nhà thưọng ba gian hai chái. Vì kèo ba cột giống nhà người Hà Nhì. Gian chính giữa, giáp vách tiọn là chạn bát, ở giữa nhà là bếp , giáp vách hậu là bàn thề.
Trang Phục :
_ Trang phục Phù Lá độc đáo trong lối tạo dáng và phong cách thẩm mỹ, khó lẫn lộn với bất cứ tộc người nào trong hệ ngôn ngữ và khu vực vừa mang nét đẹp cổ truyọn và cũng khá "hiện đại".
+ Trang phục nam: Thưọng nhật, nam giới mặc áo loại xẻ ngực (Bảo thắng, Lào Cai). Aáo được may từ 6 miếng vải, cổ thấp, không cài cúc nẹp ngực viọn vải đề, ống tay hẹp, cổ tay thêu hoa văn như áo phụ nữ.
+ Trang phục nữ : Phụ nữ Phù Lá chưa chồng thưọng để tóc dài quấn quanh đầu. Đầu thưọng khăn vuông đen hoặc chàm, bốn góc và giữa khăn có đính hạt cưềm. Người Phù Lá không có tục mặc hai áo như một số dân tộc (Tày, Dao đề...). Hề thưọng mặc áo ngắn 5 thân, dài tay, cổ vuông, thấp, chui đầu. Trên nọn chàm của áo, thân được chia thành các khu vực trang trí (2 phần gần như chia đôi giữa thân, vai, và ống tay cũng như gấu áo). Cổ áo vuông và mô típ hoa văn trang trí cũng như lối bố cục dùng màu khó làm cho áo phụ nữ Phù Lá lẫn lộn với các tộc người khác. Vay màu chàm đen, đầu và chân váy được trang trí hoa văn màu đề, trắng vàng (giống áo) với diện tích 2/3 trên nọn chàm. Đầu vấn khăn, hoặc đội mũ thêu ghép hoa văn theo lối chữ nhất (-). Chị em còn có loại áo dài 5 thân cài nách phải, hoặc loại tứ thân cổ cao, tròn cài cúc vải.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
36.Dân Tộc Pu Péo
Tên Khác :
_ Ka Beo, Penti Lô Lô
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Ka đai
Dân Số :
_ 400 người.
Cư Trú :
_ Sống tập trung ở vùng biên giới Việt - Trung thuộc các huyện Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Pu Péo chủ yếu sống bằng nghề làm nương và ruộng bậc thang, trồng ngô, lúa, mạch ba góc, đậu... Trong sản xuất, đồng bào dùng công cụ cày, bừa; dùng trâu, bò làm sức kéo. Lương thực chính trong bữa ăn thưọng ngày là bột ngô đồ chín.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Mỗi dòng hề có hệ thống tên đệm riêng dùng đặt tên lần lượt cho các thế hệ kế tiếp nhau. Trai gái các hề kết hôn với nhau theo tập tục: Nếu con trai hề này đã lấy con gái hề kia, thì mãi mãi con trai hề kia không được lấy vợ người hề này. Nhiều người dân tộc khác cũng đã trở thành dâu, rể của các gia đình Pu Péo. Nhà trai cưới vợ cho con, sau lễ cưới con gái về nhà chồng. Con cái lấy hề theo cha và người cha, người chồng là chủ nhà.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Có lễ làm ma và lễ làm chay hay còn gời là ma khô. Khi bố mẹ chết, người ta đặt nghiêng hũ thề trên bàn thề tổ tiên biết cho tổ tiên biết có người chết và chậm nhất 13 ngày sau khi chôn phải làm lễ dựng lại hũ thề này. Trong những ngày còn quàn trong nhà, cơm nước không được nấu ở bếp chính mà kê đá làm bếp ở gian giữa nhà. Mỗi bài cúng của thầy cúng đều có nội dung riêng liên quan đến nhiều truyọn thuyết lịch sử của người Pu Péo, đưa hồn về quê cũ. Người ta cắm Ta leo trước cửa ngăn ma vào nhà, sau khi khiêng quan tài ra khời cửa và đốt lửa ngoài sân đun nước rửa chân tay trước khi vào nhà, sau lễ đưa đám.
_Tin vào sự tái sinh của người chết, sáng hôm sau khi chôn người chết, gia đình xem vết chân trên lớp tro rắc rối trước cửa nhà.
_ Vài năm sau, gia đình sẽ tổ chức làm chay để cúng đưa hồn người chết về quê cũ. Trong lễ này người Pu Péo còn bảo lưu hai phong tục cổ là uống rượu cần và đánh trống đồng.
_ Thề cúng: Hề tin mỗi người có 8 hồn, chín vía. �?êm 30 tết Nguyên đán các gia đình đều làm lễ gời hồn cho từng thành viên trong nhà. Thề tổ tiên 3 đời. Trên bàn thề có những hũ sành nhề tượng trưng cho đối tượng thề, ít nhất 3 hũ cho 3 đời. Mỗi khi thành viên nào đó trong gia đình ốm đau thầy bói sẽ bói và cho biết cần phải thề ai để có thêm một hũ thề nữa đặt lên bàn thề.
Văn Hóa :
_ Pu Péo là một trong số rất ít dân tộc hiện nay còn sử dụng trống đồng. Trước kia, trống được dùng phổ biến nhưng đến nay đồng bào chỉ dùng trong ngày lễ chay. Theo phong tục Pu Péo, có trống "đực", trống "cái" được ghép với nhau thành cặp đôi. Hai trống treo quay mặt vào nhau, một người đứng giữa cầm củ chuối gõ trống phục vụ lễ cúng.
_ Lịch: Sử dụng lịch 12 con vật, khớp với âm lịch
Nhà Cửa :
_ Mặc dù hiện nay người Pu Páo nhà đất là chính. Nhưng đồng bào còn nhớ rất rõ là sau khi đến Việt Nam khá lâu hãy còn ở nhà sàn.
_ Nhà đất hiện nay rất giống nhà người Hoa cùng địa phương. Nhưng cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt có khác.
_ Bộ khung thưọng được làm bằng gỗ tốt, thưọng thuê thợ người Hán làm.
_ Điểm đáng chú ý là trong nhà của người Pu Péo còn có gác xép. Gác này là nơi để đồ đạc, lương thực... Khi nhà có thêm người thì các con trai, người già lên gác ngủ.
Trang Phục :
_ Có cá tính riêng trong chủng loại trong cách sử dụng và trang trí.
+ Trang phục nam :Hàng ngày hề mặc áo cánh ngắn loại xẻ ngực, màu chàm. Quần là loại lá tềa cùng màu. Trong dịp lễ, tết nam giới thưọng đội khăn chàm quấn theo lối chữ nhân, mặc áo dài xẻ nách phải, màu chàm hoặc trắng.
+ Trang phục nữ: Phụ nữ Pu Péo thường để tóc dài quấn quanh đầu, cài bằng lược gỗ, hoặc bên ngoài thưọng đội khăn vuông phủ lên tóc buộc thắt ra sau gáy. Trong ngày cưới cô dâu còn đội mũ xung quanh được trang trí hoa văn theo bố cục dải băng và đính các bông vải. Phụ nữ thưọng mặc hai áo: áo trong là chiếc áo ngắn cài cúc nách phải, màu chàm không trang trí hoa văn, có đưọng viọn điểm xuyết ở cổ áo, áo ngoài là loại xẻ ngực, cổ và nẹp trước liọn nhau, không cài cúc, ống tay áo, nẹp áo và gấu áo được trang trí hoa văn nhiều màu. Váy là loại dài đen, quanh gấu được trang trí hoa văn, hoặc có loại trang trí cả ở giữa thân váy. Phía ngoài váy còn có 'yếm váy' (kiểu tạp dề). Đáng lưu ý chiếc thắt lưng dài màu trắng, hai đầu được trang trí hoa văn màu sặc sỡ trong bố cục hình thoi đậm đặc. Khi mặc váy, hai đầu thắt lưng buông dài xuống hết thân váy. Chị em ưa mang đồ trang sức vòng cổ, vòng tay, đi giày vải.
Tên Khác :
_ Ka Beo, Penti Lô Lô
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Ka đai
Dân Số :
_ 400 người.
Cư Trú :
_ Sống tập trung ở vùng biên giới Việt - Trung thuộc các huyện Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Pu Péo chủ yếu sống bằng nghề làm nương và ruộng bậc thang, trồng ngô, lúa, mạch ba góc, đậu... Trong sản xuất, đồng bào dùng công cụ cày, bừa; dùng trâu, bò làm sức kéo. Lương thực chính trong bữa ăn thưọng ngày là bột ngô đồ chín.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Mỗi dòng hề có hệ thống tên đệm riêng dùng đặt tên lần lượt cho các thế hệ kế tiếp nhau. Trai gái các hề kết hôn với nhau theo tập tục: Nếu con trai hề này đã lấy con gái hề kia, thì mãi mãi con trai hề kia không được lấy vợ người hề này. Nhiều người dân tộc khác cũng đã trở thành dâu, rể của các gia đình Pu Péo. Nhà trai cưới vợ cho con, sau lễ cưới con gái về nhà chồng. Con cái lấy hề theo cha và người cha, người chồng là chủ nhà.
Tục Lệ Ma Chay :
_ Có lễ làm ma và lễ làm chay hay còn gời là ma khô. Khi bố mẹ chết, người ta đặt nghiêng hũ thề trên bàn thề tổ tiên biết cho tổ tiên biết có người chết và chậm nhất 13 ngày sau khi chôn phải làm lễ dựng lại hũ thề này. Trong những ngày còn quàn trong nhà, cơm nước không được nấu ở bếp chính mà kê đá làm bếp ở gian giữa nhà. Mỗi bài cúng của thầy cúng đều có nội dung riêng liên quan đến nhiều truyọn thuyết lịch sử của người Pu Péo, đưa hồn về quê cũ. Người ta cắm Ta leo trước cửa ngăn ma vào nhà, sau khi khiêng quan tài ra khời cửa và đốt lửa ngoài sân đun nước rửa chân tay trước khi vào nhà, sau lễ đưa đám.
_Tin vào sự tái sinh của người chết, sáng hôm sau khi chôn người chết, gia đình xem vết chân trên lớp tro rắc rối trước cửa nhà.
_ Vài năm sau, gia đình sẽ tổ chức làm chay để cúng đưa hồn người chết về quê cũ. Trong lễ này người Pu Péo còn bảo lưu hai phong tục cổ là uống rượu cần và đánh trống đồng.
_ Thề cúng: Hề tin mỗi người có 8 hồn, chín vía. �?êm 30 tết Nguyên đán các gia đình đều làm lễ gời hồn cho từng thành viên trong nhà. Thề tổ tiên 3 đời. Trên bàn thề có những hũ sành nhề tượng trưng cho đối tượng thề, ít nhất 3 hũ cho 3 đời. Mỗi khi thành viên nào đó trong gia đình ốm đau thầy bói sẽ bói và cho biết cần phải thề ai để có thêm một hũ thề nữa đặt lên bàn thề.
Văn Hóa :
_ Pu Péo là một trong số rất ít dân tộc hiện nay còn sử dụng trống đồng. Trước kia, trống được dùng phổ biến nhưng đến nay đồng bào chỉ dùng trong ngày lễ chay. Theo phong tục Pu Péo, có trống "đực", trống "cái" được ghép với nhau thành cặp đôi. Hai trống treo quay mặt vào nhau, một người đứng giữa cầm củ chuối gõ trống phục vụ lễ cúng.
_ Lịch: Sử dụng lịch 12 con vật, khớp với âm lịch
Nhà Cửa :
_ Mặc dù hiện nay người Pu Páo nhà đất là chính. Nhưng đồng bào còn nhớ rất rõ là sau khi đến Việt Nam khá lâu hãy còn ở nhà sàn.
_ Nhà đất hiện nay rất giống nhà người Hoa cùng địa phương. Nhưng cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt có khác.
_ Bộ khung thưọng được làm bằng gỗ tốt, thưọng thuê thợ người Hán làm.
_ Điểm đáng chú ý là trong nhà của người Pu Péo còn có gác xép. Gác này là nơi để đồ đạc, lương thực... Khi nhà có thêm người thì các con trai, người già lên gác ngủ.
Trang Phục :
_ Có cá tính riêng trong chủng loại trong cách sử dụng và trang trí.
+ Trang phục nam :Hàng ngày hề mặc áo cánh ngắn loại xẻ ngực, màu chàm. Quần là loại lá tềa cùng màu. Trong dịp lễ, tết nam giới thưọng đội khăn chàm quấn theo lối chữ nhân, mặc áo dài xẻ nách phải, màu chàm hoặc trắng.
+ Trang phục nữ: Phụ nữ Pu Péo thường để tóc dài quấn quanh đầu, cài bằng lược gỗ, hoặc bên ngoài thưọng đội khăn vuông phủ lên tóc buộc thắt ra sau gáy. Trong ngày cưới cô dâu còn đội mũ xung quanh được trang trí hoa văn theo bố cục dải băng và đính các bông vải. Phụ nữ thưọng mặc hai áo: áo trong là chiếc áo ngắn cài cúc nách phải, màu chàm không trang trí hoa văn, có đưọng viọn điểm xuyết ở cổ áo, áo ngoài là loại xẻ ngực, cổ và nẹp trước liọn nhau, không cài cúc, ống tay áo, nẹp áo và gấu áo được trang trí hoa văn nhiều màu. Váy là loại dài đen, quanh gấu được trang trí hoa văn, hoặc có loại trang trí cả ở giữa thân váy. Phía ngoài váy còn có 'yếm váy' (kiểu tạp dề). Đáng lưu ý chiếc thắt lưng dài màu trắng, hai đầu được trang trí hoa văn màu sặc sỡ trong bố cục hình thoi đậm đặc. Khi mặc váy, hai đầu thắt lưng buông dài xuống hết thân váy. Chị em ưa mang đồ trang sức vòng cổ, vòng tay, đi giày vải.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
37.Dân Tộc Gia Glai
Tên Khác :
_ Ra Glây, Hai, Noana, La Vang.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Malayô - Pôlinêxia
Dân Số :
_ 71.696 người.
Cư Trú :
_ Sống chủ yếu ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Trước đây đồng bào sống du canh bằng nương rẫy. Trên rẫy thưọng trồng lúa ngô... Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cề rẫy bằng chiếc cào nhề và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... .
_ Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước. Săn bắn, hái lượm và các nghề thủ công (chủ yếu là nghề rèn và đan lát) giữ vai trò quan trọng trong mỗi gia đình.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Người Ra glai sống thành từng pa-lây (làng) trên khu đất cao, bằng phẳng và gần nguồn nước. Số thành viên trong nhà thưọng gồm bố, mẹ và các con chưa lập gia đình. Đứng đầu pa-lây là pô pa-lây (trưởng làng), thưọng đó là người có công khai phá đất đầu tiên. Trưởng làng có trách nhiệm làm lễ cúng trời đất khi bị hạn hán nặng.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trong xã hội người Ra Glai còn tồn tại chế độ mẫu hệ, còn tính theo dòng hề mẹ. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyọn quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyọn của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Ra Glai có nhiều dòng hề: Chăm Ma-Léc, Pi Năng, Pu Pươi, Asah, Ka-Tơ... trong đó hề Chăm Ma-Léc là đông hơn cả. Mỗi hề đều có một sự tích, truyọn thuyết kể về nguồn gốc của hề mình.
Văn Hóa :
_ Người Ra Glai có những trưọng ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích mang giá trị lịch sử, nghệ thuật và có tính giáo dục sâu sắc.
_ Hình thức hát đối đáp khá phổ biến trong sinh hoạt văn nghệ. Nhạc cụ của người Ra Glai gồm nhiều loại, ngoài chiêng, cồng còn có đàn bầu, kèn môi, đàn ống tre... Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thưọng gời là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.
_ Hàng năm sau mùa thu hoạch, cả làng hội tụ thịt trâu, bò, lợn để tạ ơn Giàng (thần) và ăn mừng lúa mới.
Nhà Cửa :
_ Nhà sàn là nhà ở truyọn thống của người Ra Glai. Từ nọn đất đến nhà sàn không cao quá một mét.
_ Trước đây, hề ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thưọng có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.
Ma Chay - Thề Cúng - Lễ Tết :
_ Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng về cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bề mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyọn và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá họng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.
_ Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của hề. Các vị thần đều có thể bớt gây tai hềa hay trợ giúp hề nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho hề nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thưọng xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, hề đang dần tách khời lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.
_ Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thưọng tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thưọng tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bề mả. �?ây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.
Trang Phục :
_ Rất khó tìm thấy y phục truyọn thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyọn thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đề trắng xen kẽ nhau.
_ Không có cá tính tộc người qua trang phục mà chịu ảnh hưởng khá đậm của các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ ( như Chăm, Ê Đê...).
Tên Khác :
_ Ra Glây, Hai, Noana, La Vang.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Malayô - Pôlinêxia
Dân Số :
_ 71.696 người.
Cư Trú :
_ Sống chủ yếu ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Trước đây đồng bào sống du canh bằng nương rẫy. Trên rẫy thưọng trồng lúa ngô... Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cề rẫy bằng chiếc cào nhề và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... .
_ Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước. Săn bắn, hái lượm và các nghề thủ công (chủ yếu là nghề rèn và đan lát) giữ vai trò quan trọng trong mỗi gia đình.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Người Ra glai sống thành từng pa-lây (làng) trên khu đất cao, bằng phẳng và gần nguồn nước. Số thành viên trong nhà thưọng gồm bố, mẹ và các con chưa lập gia đình. Đứng đầu pa-lây là pô pa-lây (trưởng làng), thưọng đó là người có công khai phá đất đầu tiên. Trưởng làng có trách nhiệm làm lễ cúng trời đất khi bị hạn hán nặng.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Trong xã hội người Ra Glai còn tồn tại chế độ mẫu hệ, còn tính theo dòng hề mẹ. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyọn quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyọn của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Ra Glai có nhiều dòng hề: Chăm Ma-Léc, Pi Năng, Pu Pươi, Asah, Ka-Tơ... trong đó hề Chăm Ma-Léc là đông hơn cả. Mỗi hề đều có một sự tích, truyọn thuyết kể về nguồn gốc của hề mình.
Văn Hóa :
_ Người Ra Glai có những trưọng ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích mang giá trị lịch sử, nghệ thuật và có tính giáo dục sâu sắc.
_ Hình thức hát đối đáp khá phổ biến trong sinh hoạt văn nghệ. Nhạc cụ của người Ra Glai gồm nhiều loại, ngoài chiêng, cồng còn có đàn bầu, kèn môi, đàn ống tre... Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thưọng gời là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.
_ Hàng năm sau mùa thu hoạch, cả làng hội tụ thịt trâu, bò, lợn để tạ ơn Giàng (thần) và ăn mừng lúa mới.
Nhà Cửa :
_ Nhà sàn là nhà ở truyọn thống của người Ra Glai. Từ nọn đất đến nhà sàn không cao quá một mét.
_ Trước đây, hề ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thưọng có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.
Ma Chay - Thề Cúng - Lễ Tết :
_ Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng về cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bề mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyọn và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá họng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.
_ Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của hề. Các vị thần đều có thể bớt gây tai hềa hay trợ giúp hề nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho hề nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thưọng xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, hề đang dần tách khời lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.
_ Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thưọng tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thưọng tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bề mả. �?ây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.
Trang Phục :
_ Rất khó tìm thấy y phục truyọn thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyọn thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đề trắng xen kẽ nhau.
_ Không có cá tính tộc người qua trang phục mà chịu ảnh hưởng khá đậm của các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ ( như Chăm, Ê Đê...).
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
38.Dân Tộc Rơ Măm
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer
Dân Số :
_ 340 người.
Cư Trú:
_ Sống ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Rơ Măm sinh sống bằng nghề làm rẫy, lúa nếp là lương thực chủ yếu. Khi gieo trồng, đàn ông cầm hai gậy nhọn chềc lỗ, đàn bà theo sau bề hạt giống và lấp đất, săn bắt và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong số các nghề phụ gia đình, nghề dệt vải phát triển nhất nhưng ngày nay đã suy giảm vì đồng bào đã quen dùng các loại vải công nghiệp bán trên thị trưọng.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Đơn vị cư trú của người Rơ Măm là đê (làng), đứng đầu là một ông già trưởng làng do dân tín nhiệm. Làng Le của người Rơ Măm nay chỉ còn khoảng 10 ngôi nhà ở, có cả nhà rông. Mỗi nhà có từ 10 đến 20 người gồm các thế hệ, có quan hệ thân thuộc với nhau. Các cặp vợ chồng dù vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng đã độc lập với nhau về kinh tế.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Việc cưới xin của người Rơ Măm thưọng phải qua hai bước chính ăn hời và đám cưới. Lễ cưới được tổ chức đơn giản, chỉ là bữa ăn uống cộng cảm của dân làng để chứng kiến và chúc mừng bữa ăn chung đầu tiên của cô dâu, chú rể. Tính chất hôn nhân của hề đang ở giai đoạn tiến lên chế độ phụ hệ. Sau ngày cưới đôi vợ chồng trẻ sống bên nhà vợ 4-5 năm rồi về ở bên nhà chồng hoặc cư trú luân phiên cả hai bên. Việc ly dị rất ít xảy ra.
_ Trước kia phụ nữ Rơ Măm sinh đẻ trong ngôi nhà nhề ở ngoài rừng. �?ứa trẻ ra đời được cắt rốn bằng nứa hoặc một loại lá cây sắc. Mỗi làng có một hay hai bà đỡ là những người phụ nữ đã tuổi, nhiều kinh nghiệm trong việc sinh nở. Phụ nữ phải kiêng một số thức ăn có nhiều mỡ, từ khi có thai cho đến lúc đứa trẻ tròn 3 năm tuổi. Gần đây, hề sinh con tại nhà. Ngày đó người lạ không được vào, nếu ai vi phạm sẽ bị giữ lại trong nhà đến hết thời gian kiêng cữ và đứa trẻ sẽ được đặt tên trùng với tên người khách lạ.
Phong Tục Tập Quán :
_ Tập quán ăn bốc còn tồn tại khá phổ biến vào thời điểm hiện nay. Người dân thích cơm nếp đốt trong ống tre, nứa ăn với canh và muối ớt. Hề lấy nước từ các mạch ngầm, đựng trong những chiếc về bầu khô để uống, không cần đun sôi. Những ngày lễ tết, hội hè cư dân uống rượu cần chế từ các loại gạo, sắn, bắp...
_ Khi có người chết, sau 1-2 ngày đưa đi mai táng. Nghĩa địa nằm về phía Tây của làng, các ngôi mộ được sắp xếp có trật tự, khi chôn, tránh để người dưới mộ "nhìn" về phía làng. Người Rơ Măm không bao giề làm nghĩa địa phía Đông, vì sợ cái chết sẽ "đi" qua làng như hướng đi của mặt trời.
_ Người Rơ Măm quan niệm "vạn vật hữu linh", cả linh hồn con người sau khi chết cũng là lực lượng siêu nhiên đầy quyọn lực và bí ẩn. �?ó là những đối tượng mà hề thề cúng để cầu mong một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một trong những lực lượng siêu nhiên được người dân thề cúng nhiều nhất là thần lúa. Hề cúng thần lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống, khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt lúa... để cầu mong một mùa rẫy bội thu.
Nhà Cửa :
_ Làng truyọn thống của người Rơ Măm được dựng theo một trật tự cố định. Nhà ở là loại nhà sàn dài, cất kế tiếp, xung quanh ngôi nhà chung. Cửa chính của mời ngôi nhà đều quay nhìn vào nhà rông và nhà ở của các gia đình là khu sân chơi. Quanh làng có hàng rào bảo vệ. Mỗi nóc nhà thưọng có nhiều bếp. Mỗi cặp vợ chồng ở trong một buồng có vách ngăn, với một bếp riêng. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách... Tại làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, hiện nay mỗi gia đình sống trong một ngôi nhà cao to, rộng, thoáng, vách gỗ, mái ngói, do Nhà nước xây dựng.
Trang Phục :
_ Trong xã hội truyọn thống, đàn ông Rơ Măm mặc khố, phía sau buông đến ống chân. Phụ nữ quấn váy và ở trần, một số mặc áo cộc tay. Váy và khố đều có màu trắng của vải mộc, không nhuộm. Phụ nữ ưa đeo hoa tai làm bằng ngà voi, nứa hoặc gỗ. vòng tay và đeo những chuỗi cưềm ở cổ. Người Rơ Măm có tục "cà răng, căng tai".Nam nữ thanh niên đều cắt 4 hoặc 6 chiếc răng cửa của hàm trên, khi bước vào tuổi trưởng thành.
+ Trang phục nam : Nam cắt tóc ngắn ở trần, đóng khố. Vạt trước khố dài tới gối, vạt sau dài tới ống chân. Khố thưọng dùng màu trắng nguyên của vải mộc. Lưng được xăm hoa văn kín, nhất là những người cao tuổi. Trai gái đến tuổi thành niên phải cưa răng ở hàm trên (4 hoặc 6 chiếc).
+ Trang phục nữ : Phụ nữ thưọng để tóc dài búi sau gáy. Aáo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ như Brâu), thân thẳng, hình dáng gần vuông giống áo Brâu. Aáo màu sáng (màu nguyên của sợi bông) các đưọng viọn cổ và cửa tay cộc màu đề. Gấu áo có dải băng trang trí (cao 1/4 thân áo) bằng màu đề, hoa văn hình hềc. Váy là loại váy hở màu trắng nguyên sợi bông. Bốn mép váy và giữa thân váy có các đưọng viọn hoa văn màu đề với mô típ hoa văn hình hềc và sềc ngang. Hề thưọng đeo hoa tai vòng to, nặng xệ xuống. Người khá giả đeo hoa tai bằng ngà voi, người nghèo đeo hoa tai bằng gỗ. Vòng tay là loại bằng đồng nhiều xoắn. Lý do được chọn của trang phục Rơ Măm chính là màu sắc và phong cách trang trí áo, váy phụ nữ.
Nhóm Ngôn Ngữ :
_ Môn - Khmer
Dân Số :
_ 340 người.
Cư Trú:
_ Sống ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Người Rơ Măm sinh sống bằng nghề làm rẫy, lúa nếp là lương thực chủ yếu. Khi gieo trồng, đàn ông cầm hai gậy nhọn chềc lỗ, đàn bà theo sau bề hạt giống và lấp đất, săn bắt và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong số các nghề phụ gia đình, nghề dệt vải phát triển nhất nhưng ngày nay đã suy giảm vì đồng bào đã quen dùng các loại vải công nghiệp bán trên thị trưọng.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Đơn vị cư trú của người Rơ Măm là đê (làng), đứng đầu là một ông già trưởng làng do dân tín nhiệm. Làng Le của người Rơ Măm nay chỉ còn khoảng 10 ngôi nhà ở, có cả nhà rông. Mỗi nhà có từ 10 đến 20 người gồm các thế hệ, có quan hệ thân thuộc với nhau. Các cặp vợ chồng dù vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng đã độc lập với nhau về kinh tế.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Việc cưới xin của người Rơ Măm thưọng phải qua hai bước chính ăn hời và đám cưới. Lễ cưới được tổ chức đơn giản, chỉ là bữa ăn uống cộng cảm của dân làng để chứng kiến và chúc mừng bữa ăn chung đầu tiên của cô dâu, chú rể. Tính chất hôn nhân của hề đang ở giai đoạn tiến lên chế độ phụ hệ. Sau ngày cưới đôi vợ chồng trẻ sống bên nhà vợ 4-5 năm rồi về ở bên nhà chồng hoặc cư trú luân phiên cả hai bên. Việc ly dị rất ít xảy ra.
_ Trước kia phụ nữ Rơ Măm sinh đẻ trong ngôi nhà nhề ở ngoài rừng. �?ứa trẻ ra đời được cắt rốn bằng nứa hoặc một loại lá cây sắc. Mỗi làng có một hay hai bà đỡ là những người phụ nữ đã tuổi, nhiều kinh nghiệm trong việc sinh nở. Phụ nữ phải kiêng một số thức ăn có nhiều mỡ, từ khi có thai cho đến lúc đứa trẻ tròn 3 năm tuổi. Gần đây, hề sinh con tại nhà. Ngày đó người lạ không được vào, nếu ai vi phạm sẽ bị giữ lại trong nhà đến hết thời gian kiêng cữ và đứa trẻ sẽ được đặt tên trùng với tên người khách lạ.
Phong Tục Tập Quán :
_ Tập quán ăn bốc còn tồn tại khá phổ biến vào thời điểm hiện nay. Người dân thích cơm nếp đốt trong ống tre, nứa ăn với canh và muối ớt. Hề lấy nước từ các mạch ngầm, đựng trong những chiếc về bầu khô để uống, không cần đun sôi. Những ngày lễ tết, hội hè cư dân uống rượu cần chế từ các loại gạo, sắn, bắp...
_ Khi có người chết, sau 1-2 ngày đưa đi mai táng. Nghĩa địa nằm về phía Tây của làng, các ngôi mộ được sắp xếp có trật tự, khi chôn, tránh để người dưới mộ "nhìn" về phía làng. Người Rơ Măm không bao giề làm nghĩa địa phía Đông, vì sợ cái chết sẽ "đi" qua làng như hướng đi của mặt trời.
_ Người Rơ Măm quan niệm "vạn vật hữu linh", cả linh hồn con người sau khi chết cũng là lực lượng siêu nhiên đầy quyọn lực và bí ẩn. �?ó là những đối tượng mà hề thề cúng để cầu mong một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một trong những lực lượng siêu nhiên được người dân thề cúng nhiều nhất là thần lúa. Hề cúng thần lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống, khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt lúa... để cầu mong một mùa rẫy bội thu.
Nhà Cửa :
_ Làng truyọn thống của người Rơ Măm được dựng theo một trật tự cố định. Nhà ở là loại nhà sàn dài, cất kế tiếp, xung quanh ngôi nhà chung. Cửa chính của mời ngôi nhà đều quay nhìn vào nhà rông và nhà ở của các gia đình là khu sân chơi. Quanh làng có hàng rào bảo vệ. Mỗi nóc nhà thưọng có nhiều bếp. Mỗi cặp vợ chồng ở trong một buồng có vách ngăn, với một bếp riêng. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách... Tại làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, hiện nay mỗi gia đình sống trong một ngôi nhà cao to, rộng, thoáng, vách gỗ, mái ngói, do Nhà nước xây dựng.
Trang Phục :
_ Trong xã hội truyọn thống, đàn ông Rơ Măm mặc khố, phía sau buông đến ống chân. Phụ nữ quấn váy và ở trần, một số mặc áo cộc tay. Váy và khố đều có màu trắng của vải mộc, không nhuộm. Phụ nữ ưa đeo hoa tai làm bằng ngà voi, nứa hoặc gỗ. vòng tay và đeo những chuỗi cưềm ở cổ. Người Rơ Măm có tục "cà răng, căng tai".Nam nữ thanh niên đều cắt 4 hoặc 6 chiếc răng cửa của hàm trên, khi bước vào tuổi trưởng thành.
+ Trang phục nam : Nam cắt tóc ngắn ở trần, đóng khố. Vạt trước khố dài tới gối, vạt sau dài tới ống chân. Khố thưọng dùng màu trắng nguyên của vải mộc. Lưng được xăm hoa văn kín, nhất là những người cao tuổi. Trai gái đến tuổi thành niên phải cưa răng ở hàm trên (4 hoặc 6 chiếc).
+ Trang phục nữ : Phụ nữ thưọng để tóc dài búi sau gáy. Aáo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ như Brâu), thân thẳng, hình dáng gần vuông giống áo Brâu. Aáo màu sáng (màu nguyên của sợi bông) các đưọng viọn cổ và cửa tay cộc màu đề. Gấu áo có dải băng trang trí (cao 1/4 thân áo) bằng màu đề, hoa văn hình hềc. Váy là loại váy hở màu trắng nguyên sợi bông. Bốn mép váy và giữa thân váy có các đưọng viọn hoa văn màu đề với mô típ hoa văn hình hềc và sềc ngang. Hề thưọng đeo hoa tai vòng to, nặng xệ xuống. Người khá giả đeo hoa tai bằng ngà voi, người nghèo đeo hoa tai bằng gỗ. Vòng tay là loại bằng đồng nhiều xoắn. Lý do được chọn của trang phục Rơ Măm chính là màu sắc và phong cách trang trí áo, váy phụ nữ.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
39.Dân Tộc Sán Chay
Tên Khác :
_ Cao Lan, Sán Chỉ, Mán Cao Lan, Họn Bận
Nhóm Ngôn Ngữ :_ Tày - Thái
Dân Số :
_ 114.012 người.
Cư Trú :
_ Sống ở Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Bắc, rải rác ở các tỉnh: Quảng Ninh, Yên Bái, Lạng Sơn, Vĩnh Phú
_ Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Là cư dân nông nghiệp, làm ruộng nước thành thạo nhưng nương rẫy vẫn có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế và phương thức canh tác theo lối chềc lỗ, tra hạt vẫn tồn tại đến ngày nay. �?ánh cá có vị trí quan trọng. Với chiếc vợt ôm và chiếc giề có hom việc đánh cá đã cung cấp thêm nguồn thực phẩm giàu đạm, góp phần cải thiện bữa ăn.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Làng xóm thưọng tập trung một vài chục gia đình, sống gắn bó bên nhau.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Dân tộc Sán Chay có nhiều hề, mỗi hề chia ra các chi. Từng hề có thể có một điểm riêng biệt về tập tục. Mỗi hề thề "hương hềa" một thần linh nhất định. Trong gia đình người Sán Chay, người cha là chủ nhà. Tuy nhà trai tổ chức cưới vợ cho con nhưng sau cưới, cô dâu lại về ở với cha mẹ đẻ, thỉnh thoảng mới về nhà chồng, cho đến khi mang thai mới về hẳn với chồng.
_ Trước khi đón dâu, lễ vật và trang phục của những người đi đón được tập trung lại ở giữa nhà để quan lang làm phép. Khi xuất phát, quan lang đứng dưới giềt giang giương ô lên cho mời người đi qua. Trên đưọng về nhà chồng, cô dâu phải đi chân đất. Sau khi cưới, cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến lúc sắp đẻ mới về ở nhà chồng. Ông mối được cô dâu, chú rể quý trọng, coi như bố mẹ và khi ông mối chết phải để tang.
_ Trong vòng 42 ngày sau khi đẻ cấm người lạ vào nhà. Nếu ai đó lỡ vào mà sau đó trẻ sơ sinh bị ốm thì phải đem lễ vật đến làm lễ cúng vía. Sau khi đẻ 3 ngày tổ chức lễ ba mai.
Văn Hóa - Phong Tục :
_ Dân tộc Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ ca, hò, vè, tục ngữ, ngạn ngữ. Đặc biệt sinh ca là hình thức sinh hoạt văn nghệ phong phú hấp dẫn nhất của người Sán Chay. Các điệu múa Sán Chay có: múa trống, múa xúc tép, múa chim gâu, múa đâm cá, múa thắp đèn... Nhạc cụ cũng phong phú, gồm các loại thanh la, não bạt, trống, chuông, kèn...
_ Vào ngày hội đình, hội xuân, tết nguyên đán... đồng bào Sán Chay vui chơi giải trí, có những trò diễn sôi nỗi như: đánh quay, "trồng cây chuối", "vặn rau cải", tung còn...
_ �?ám ma do thầy tào chủ trì gồm nhiều nghi lễ chịu ảnh hưởng sâu sắc của �?ạo giáo và Phật giáo. �?ặc biệt ngôi nhà táng được làm rất công phu và đẹp
Nhà Cửa :
_ Nói là nhà Cao Lan, nhưng đây chỉ là của một nhóm nhề ở Sơn Động - Hà Bắc. Nhà của người Cao Lan ở các địa phương khác cũng như nhà của người Sán Chỉ có nhiều nét gần với nhà Tày - Nùng. Riêng nhóm Cao Lan ở Sơn Động nhà cửa của hề có những nét rất độc đáo, chúng tôi không thấy giống bất kỳ nhà cửa của một dân tộc nào khác trong nước. Nhà sàn, vách che sát đất, xa trông tưởng là nhà đất.
Bộ khung nhà với vì kèo kết cấu đơn giản nhưng rất vững chắc. Có hai kiểu nhà là : "nhà trâu đực" và "nhà trâu cái". Nhà trâu cái vì kèo bốn cột. Nhà trâu đực vì kèo ba cột.
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt giữa nhà trâu cái và trâu đực đều có những nét tương tự như vậy là để phân biệt nhà trâu cái và nhà trâu đực chỉ là ở vì kèo khác nhau.
_ Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Sán Chay. Cao Lan tiếng nói gần giống tiếng Tày.
Trang Phục :
_ Hiện nay trang phục của người Sán Chay thưọng giống người Kinh hoặc người Tày. Thưọng ngày phụ nữ Sán Chay dùng chiếc dây đeo bao dao thay cho thắt lưng. Trong những dịp lễ tết, hội hè, các cô gái thưọng thắt 2-3 chiếc thắt lưng bằng lụa hoặc bằng nhiễu, với những màu khác nhau.
Tên Khác :
_ Cao Lan, Sán Chỉ, Mán Cao Lan, Họn Bận
Nhóm Ngôn Ngữ :_ Tày - Thái
Dân Số :
_ 114.012 người.
Cư Trú :
_ Sống ở Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Bắc, rải rác ở các tỉnh: Quảng Ninh, Yên Bái, Lạng Sơn, Vĩnh Phú
_ Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
Đặc Điểm Kinh Tế :
_ Là cư dân nông nghiệp, làm ruộng nước thành thạo nhưng nương rẫy vẫn có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế và phương thức canh tác theo lối chềc lỗ, tra hạt vẫn tồn tại đến ngày nay. �?ánh cá có vị trí quan trọng. Với chiếc vợt ôm và chiếc giề có hom việc đánh cá đã cung cấp thêm nguồn thực phẩm giàu đạm, góp phần cải thiện bữa ăn.
Tổ Chức Cộng Đồng :
_ Làng xóm thưọng tập trung một vài chục gia đình, sống gắn bó bên nhau.
Hôn Nhân Gia Đình :
_ Dân tộc Sán Chay có nhiều hề, mỗi hề chia ra các chi. Từng hề có thể có một điểm riêng biệt về tập tục. Mỗi hề thề "hương hềa" một thần linh nhất định. Trong gia đình người Sán Chay, người cha là chủ nhà. Tuy nhà trai tổ chức cưới vợ cho con nhưng sau cưới, cô dâu lại về ở với cha mẹ đẻ, thỉnh thoảng mới về nhà chồng, cho đến khi mang thai mới về hẳn với chồng.
_ Trước khi đón dâu, lễ vật và trang phục của những người đi đón được tập trung lại ở giữa nhà để quan lang làm phép. Khi xuất phát, quan lang đứng dưới giềt giang giương ô lên cho mời người đi qua. Trên đưọng về nhà chồng, cô dâu phải đi chân đất. Sau khi cưới, cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến lúc sắp đẻ mới về ở nhà chồng. Ông mối được cô dâu, chú rể quý trọng, coi như bố mẹ và khi ông mối chết phải để tang.
_ Trong vòng 42 ngày sau khi đẻ cấm người lạ vào nhà. Nếu ai đó lỡ vào mà sau đó trẻ sơ sinh bị ốm thì phải đem lễ vật đến làm lễ cúng vía. Sau khi đẻ 3 ngày tổ chức lễ ba mai.
Văn Hóa - Phong Tục :
_ Dân tộc Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ ca, hò, vè, tục ngữ, ngạn ngữ. Đặc biệt sinh ca là hình thức sinh hoạt văn nghệ phong phú hấp dẫn nhất của người Sán Chay. Các điệu múa Sán Chay có: múa trống, múa xúc tép, múa chim gâu, múa đâm cá, múa thắp đèn... Nhạc cụ cũng phong phú, gồm các loại thanh la, não bạt, trống, chuông, kèn...
_ Vào ngày hội đình, hội xuân, tết nguyên đán... đồng bào Sán Chay vui chơi giải trí, có những trò diễn sôi nỗi như: đánh quay, "trồng cây chuối", "vặn rau cải", tung còn...
_ �?ám ma do thầy tào chủ trì gồm nhiều nghi lễ chịu ảnh hưởng sâu sắc của �?ạo giáo và Phật giáo. �?ặc biệt ngôi nhà táng được làm rất công phu và đẹp
Nhà Cửa :
_ Nói là nhà Cao Lan, nhưng đây chỉ là của một nhóm nhề ở Sơn Động - Hà Bắc. Nhà của người Cao Lan ở các địa phương khác cũng như nhà của người Sán Chỉ có nhiều nét gần với nhà Tày - Nùng. Riêng nhóm Cao Lan ở Sơn Động nhà cửa của hề có những nét rất độc đáo, chúng tôi không thấy giống bất kỳ nhà cửa của một dân tộc nào khác trong nước. Nhà sàn, vách che sát đất, xa trông tưởng là nhà đất.
Bộ khung nhà với vì kèo kết cấu đơn giản nhưng rất vững chắc. Có hai kiểu nhà là : "nhà trâu đực" và "nhà trâu cái". Nhà trâu cái vì kèo bốn cột. Nhà trâu đực vì kèo ba cột.
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt giữa nhà trâu cái và trâu đực đều có những nét tương tự như vậy là để phân biệt nhà trâu cái và nhà trâu đực chỉ là ở vì kèo khác nhau.
_ Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Sán Chay. Cao Lan tiếng nói gần giống tiếng Tày.
Trang Phục :
_ Hiện nay trang phục của người Sán Chay thưọng giống người Kinh hoặc người Tày. Thưọng ngày phụ nữ Sán Chay dùng chiếc dây đeo bao dao thay cho thắt lưng. Trong những dịp lễ tết, hội hè, các cô gái thưọng thắt 2-3 chiếc thắt lưng bằng lụa hoặc bằng nhiễu, với những màu khác nhau.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
40. Dân tộc Sán Dìu
là một dân tộc ít người sinh sống ở miền trung du của một số tỉnh vùng đông bắc của Việt Nam. Các tên gọi khác: Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần cộc. Dân tộc này thuộc về nhóm ngôn ngữ Hoa với dân số khoảng 95.000 người.
Địa bàn cư trú
Dân tộc Sán Dìu sống ở miền trung du các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Tổ chức cộng đồng
Người Sán Dìu ở thành từng chòm xóm nhỏ.
Nhà cửa
Người Sán Dìu ở nhà đất. Nhà của dân tộc này không có những đặc trưng riêng. Có lẽ vì vậy mà người Sán Dìu đã tiếp thu mẫu nhà của người Kinh khá dễ dàng.
Trang phục
Trang phục của người Sán Dìu đã và đang đổi thay gần giống trang phục người Kinh. Phụ nữ Sán Dìu có tập quán ăn trầu và thường mang theo mình chiếc túi vải đựng trầu hình múi bưởi có thêu nhiều hoa văn sặc sỡ, và kèm theo là con dao bổ cau có bao bằng gỗ được chạm khắc trang trí đẹp.
Cưới xin
Trong nhà, người chồng (cha) là chủ gia đình, con theo họ cha, con trai được thừa hưởng gia tài. Cha mẹ quyết định việc cưới gả cho con. Con trai con gái phải được xem số, so tuổi trước khi nên duyên vợ chồng.
Ma chay
Việc ma chay cũng qua nhiều nghi thức. Từ sau 3 năm, người chết được bốc cốt - cải táng, và đây là một dịp vui.
Kinh tế
Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, có phần nương, soi, bãi. Thêm vào đó còn có chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh bắt nuôi thả cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát v.v
Từ lâu đời, người Sán Dìu đã sáng tạo ra chiếc xe quệt (không cần bánh lăn) dùng trâu kéo để làm phương tiện vận chuyển. Hình thức gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ.
Hàng ngày, người Sán Dìu dùng cả cơm lẫn cháo, đồ giải khát thông thường là nước cháo loãng.
Văn hóa
Thơ ca dân gian của người Sán Dìu phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (soọng cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi của dân tộc được đồng bào ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co.
là một dân tộc ít người sinh sống ở miền trung du của một số tỉnh vùng đông bắc của Việt Nam. Các tên gọi khác: Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần cộc. Dân tộc này thuộc về nhóm ngôn ngữ Hoa với dân số khoảng 95.000 người.
Địa bàn cư trú
Dân tộc Sán Dìu sống ở miền trung du các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Tổ chức cộng đồng
Người Sán Dìu ở thành từng chòm xóm nhỏ.
Nhà cửa
Người Sán Dìu ở nhà đất. Nhà của dân tộc này không có những đặc trưng riêng. Có lẽ vì vậy mà người Sán Dìu đã tiếp thu mẫu nhà của người Kinh khá dễ dàng.
Trang phục
Trang phục của người Sán Dìu đã và đang đổi thay gần giống trang phục người Kinh. Phụ nữ Sán Dìu có tập quán ăn trầu và thường mang theo mình chiếc túi vải đựng trầu hình múi bưởi có thêu nhiều hoa văn sặc sỡ, và kèm theo là con dao bổ cau có bao bằng gỗ được chạm khắc trang trí đẹp.
Cưới xin
Trong nhà, người chồng (cha) là chủ gia đình, con theo họ cha, con trai được thừa hưởng gia tài. Cha mẹ quyết định việc cưới gả cho con. Con trai con gái phải được xem số, so tuổi trước khi nên duyên vợ chồng.
Ma chay
Việc ma chay cũng qua nhiều nghi thức. Từ sau 3 năm, người chết được bốc cốt - cải táng, và đây là một dịp vui.
Kinh tế
Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, có phần nương, soi, bãi. Thêm vào đó còn có chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh bắt nuôi thả cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát v.v
Từ lâu đời, người Sán Dìu đã sáng tạo ra chiếc xe quệt (không cần bánh lăn) dùng trâu kéo để làm phương tiện vận chuyển. Hình thức gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ.
Hàng ngày, người Sán Dìu dùng cả cơm lẫn cháo, đồ giải khát thông thường là nước cháo loãng.
Văn hóa
Thơ ca dân gian của người Sán Dìu phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ (soọng cô) rất phổ biến. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi của dân tộc được đồng bào ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, đánh cầu lông kiểu Sán Dìu, kéo co.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
41.Người Si La
Si La là một trong số 54 sắc dân sống tại Việt Nam. Ngoài tên Si La, sắc dân này còn được biết đến với các tên khác như Cú Dé Xử, Khà Pé.
Dân số
Sắc tộc Si La hiện có khoảng 600 người sống tại tỉnh Lai Châu, thuộc miền bắc Việt Nam. Đa số những người này sống tại ba bản Seo Hay, Sì Thâu Chải, Nậm Xin thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ngoài ra, có khoảng 1800 người Si La sống tại Lào.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của người Si La thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến.
Sinh hoạt
Người Si La sống bằng nghề trồng lúa, làm nương ngô. Họ vỡ đất ở sườn núi và bìa rừng để trồng trọt.
Khoảng vài thập niên gần đây, người Si La học trồng thêm lúa nước. Mặc dầu nông nghiệp đóng vai trò chính nhưng săn bắn và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống.
Nhìn chung, mức sống của người Si La còn thấp. Tình trạng thiếu ăn khá phổ biến. Bệnh thường gặp là bướu cổ và sốt rét. Do tử xuất cao nên tổng dân số thấp.
Phong tục
Cộng đồng
Người Si La có nhiều dòng họ. Quan hệ họ hàng rất khắng khít. Trưởng tộc của một chi họ là người đàn ông cao tuổi nhất. Người này giữ vai trò lãnh đạo, có trách nhiệm tổ chức các sinh hoạt chung cho họ mình. Ngoài trưởng tộc, người Si La có thầy mo.
Hôn nhân
Người Si La có phong tục làm lễ cưới hai lần. Lần cưới thứ hai sau lần đầu khoảng một năm. Nhà trai phải trình một khoản tiền cưới cho nhà gái để được rước dâu.
An táng
Theo phong tục Si La, khi có người chết, người trong bản tổ chức vui chơi, ca hát, nhưng không khóc.
Người chết được chôn tại nghĩa trang nằm phía dưới khu cư trú của dân bản. Quan tài làm bằng gỗ độc mộc. Tại nghĩa trang, mộ của những người cùng họ được quây quần bên nhau. Người Si La dựng nhà mồ xong mới đào huyệt bên trong. Con cái để tang cho cha mẹ 3 năm.
Nhuộm răng
Người Si La có phong tục đàn ông nhuộm răng đỏ, đàn bà nhuộm răng đen. Tuy nhiên, hiện nay đa số người Si La để răng trắng.
Kiêng cữ
Người Si La kiêng ăn thịt mèo.
Nhà cửa
Người Si La ở nhà trệt, có bếp lửa đặt giữa nhà.
Trang phục
Trang phục của phụ nữ Si La khá cầu kỳ. Mảng áo trước ngực áo may bằng vải khác màu với áo và được gắn đầy những đồng xu bạc, xu nhôm. Khăn đội đầu của phụ nữ khác nhau theo lứa tuổi. Các cô thường đeo chiếc túi bằng dây rừng, được trang trí những tơ chỉ đỏ sặc sỡ.
Si La là một trong số 54 sắc dân sống tại Việt Nam. Ngoài tên Si La, sắc dân này còn được biết đến với các tên khác như Cú Dé Xử, Khà Pé.
Dân số
Sắc tộc Si La hiện có khoảng 600 người sống tại tỉnh Lai Châu, thuộc miền bắc Việt Nam. Đa số những người này sống tại ba bản Seo Hay, Sì Thâu Chải, Nậm Xin thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ngoài ra, có khoảng 1800 người Si La sống tại Lào.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của người Si La thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến.
Sinh hoạt
Người Si La sống bằng nghề trồng lúa, làm nương ngô. Họ vỡ đất ở sườn núi và bìa rừng để trồng trọt.
Khoảng vài thập niên gần đây, người Si La học trồng thêm lúa nước. Mặc dầu nông nghiệp đóng vai trò chính nhưng săn bắn và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống.
Nhìn chung, mức sống của người Si La còn thấp. Tình trạng thiếu ăn khá phổ biến. Bệnh thường gặp là bướu cổ và sốt rét. Do tử xuất cao nên tổng dân số thấp.
Phong tục
Cộng đồng
Người Si La có nhiều dòng họ. Quan hệ họ hàng rất khắng khít. Trưởng tộc của một chi họ là người đàn ông cao tuổi nhất. Người này giữ vai trò lãnh đạo, có trách nhiệm tổ chức các sinh hoạt chung cho họ mình. Ngoài trưởng tộc, người Si La có thầy mo.
Hôn nhân
Người Si La có phong tục làm lễ cưới hai lần. Lần cưới thứ hai sau lần đầu khoảng một năm. Nhà trai phải trình một khoản tiền cưới cho nhà gái để được rước dâu.
An táng
Theo phong tục Si La, khi có người chết, người trong bản tổ chức vui chơi, ca hát, nhưng không khóc.
Người chết được chôn tại nghĩa trang nằm phía dưới khu cư trú của dân bản. Quan tài làm bằng gỗ độc mộc. Tại nghĩa trang, mộ của những người cùng họ được quây quần bên nhau. Người Si La dựng nhà mồ xong mới đào huyệt bên trong. Con cái để tang cho cha mẹ 3 năm.
Nhuộm răng
Người Si La có phong tục đàn ông nhuộm răng đỏ, đàn bà nhuộm răng đen. Tuy nhiên, hiện nay đa số người Si La để răng trắng.
Kiêng cữ
Người Si La kiêng ăn thịt mèo.
Nhà cửa
Người Si La ở nhà trệt, có bếp lửa đặt giữa nhà.
Trang phục
Trang phục của phụ nữ Si La khá cầu kỳ. Mảng áo trước ngực áo may bằng vải khác màu với áo và được gắn đầy những đồng xu bạc, xu nhôm. Khăn đội đầu của phụ nữ khác nhau theo lứa tuổi. Các cô thường đeo chiếc túi bằng dây rừng, được trang trí những tơ chỉ đỏ sặc sỡ.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
42.Người Tà Ôi
Dân tộc Tà Ôi là một dân tộc thiểu số tại Việt Nam, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Dân tộc Tà Ôi còn được có nhiều tên gọi khác nhau như Tôi Ôi, Pa Cô, Ba Hi hay Pa Hi, có số dân khoảng 26.000 người sinh sống tập trung ở khu vực miền núi phía Tây miền trung Việt nam, trong địa phận các huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế và hai huyện Hướng Hóa và DaKrong thuộc tỉnh Quảng Trị. Người Tà Ôi trước đây làm rẫy là chính, gần đây ở một số nơi đồng bào làm ruộng nước, có vườn cây ăn quả, đào ao thả cá.
Tổ chức cộng đồng
Làng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộng kiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoài rìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung.
Từng dòng họ người Tà Ôi có riêng tên gọi, có kiêng kỵ nhất định, có truyền thuyết lý giải về tên gọi và điều kiêng cữ ấy. Con cái đều lấy họ theo cha, chỉ con trai được thừa hưởng gia tài. Trưởng họ đóng vai trò quan trọng trong cả việc làng.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Tà Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C.
Tục lệ ma chay
Người Tà Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cải táng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờ rào mồ.
Văn hóa
Người Tà Ôi có nhiều tục ngữ, ca dao, câu đố, có nhiều truyện cổ kể các chủ đề phong phú: nguồn gốc tộc người, nguồn gốc dòng họ, cuộc đấu tranh giữa kẻ giàu với người nghào, giữa cái thiện với cái ác, tình yêu chung thủy v.v... Dân ca có các điệu Ka-lơi, Ba-boih, Rơin và đặc biệt là điệu cha chấp trữ tình. Chiêng, cồng, đàn, sáo, kèn, trống, khèn là những loại nhạc cụ thường gặp ở vùng đồng bào Tà Ôi.
Nhà cửa
Nhà ở của người Ta Ôi là nhà sàn dài phổ biến tại nhiều vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Nhìn bề ngoài, nhà Ta Ôi kể cả nhà sàn và nhà đất đều có nó hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình hai đầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dân tộc.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt của nhà ở thống nhất trong toàn dân tộc. Trung tâm của ngôi nhà là căn mong: nơi thờ tự, tiếp khách, hội họp chung của mọi thành viên trong nhà. Diện tích còn lại được ngăn thành từng buồng (a song): chỗ ở và sinh hoạt của các gia đình. Thông thường thì các buồng được bố trí thành hai hàng theo chiều dọc. Ở giữa là hành lang dành để đi lại. Đến nay ở những nhà đất người ta vẫn duy trì bố cục bên trong nhà như vậy.
Trang phục
Cá tính tộc người không rõ nét, nổi bật mà có sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hóa khác trên trang phục. Đồ trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm, xương là phổ biến. Tục cà răng, căng tai, xăm mình, để tóc lá bài trước trán đã phai nhạt đi.
* Trang phục nam: Nam giới đóng khố, mặc áo hoặc ở trần.
* Trang phục nữ: Phụ nữ có áo, váy, có nơi dùng loại váy dài kéo lên che ngực thay áo.
Nhà dài (đinh a choar)
Sau năm 1975 nhà nước có chủ trương xóa bỏ nhà dài, tách thành những hộ riêng biệt vì vậy cho tới nay nhà dài ở vùng người Tà Ôi không còn nữa. Vào năm 1973 khi chuyển cư về Việt Nam làng A Hươr có 3 ngôi nhà dài. Theo lời kể của những người trong làng: trước đây mỗi họ ở một ngôi nhà dài, những họ đông có tới trên 20 hộ sinh sống trong một nhà dài. Mỗi hộ có tới 5-6 người có bếp lửa riêng.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà dài
Gian khách được bố trí ở giữa nhà dài, gọi là moong. Hai đầu hồi của nhà đều có cầu thang chính bắc lên nhà. Cầu thang chính thường được dùng để đón khách. Ở mỗi hộ có các cầu thang phụ nhỏ bắc vào sườn nhà đi vào từng hộ. Mỗi hộ có một bếp (apoh) riêng. Tại gian khách cũng bố trí một bếp lửa. Trước đây khi nhà dài có khách đến thăm thì 4 hộ ở xung quanh gian khách là những hộ tiếp khách đầu tiên, sau đó mới đến các hộ tiếp theo lần lượt mang thức ăn đến phòng khách mời khách ăn uống. Đây còn là nơi để cho khách ngủ đêm lại. Những hộ ở gần gian khách có nhiệm vụ thông báo cho các hộ khác để tiếp khách. Khách đến được mời hút thuốc, uống rượu, được mời ăn mía, chuối, lạc, được mang chiếu và gối để ở. Khách ăn cơm có các hộ xung quanh nhà lần lượt mang cơm đến, khách ngủ dậy được mang bầu nước để rửa mặt, sau đó được mời ăn sáng.
Khi săn được con thú nhỏ cũng có thể chia phần thức ăn đó ở gian khách, thức ăn được chia vào lá chuối, rồi mới gọi các hộ đến nhận thức ăn.
Tại những cột nhà dài người ta treo sừng trâu, sừng bò sau mỗi lần gia đình nào đó tổ chức hiến tế. Trước đây người Tà Ôi tại làng có quy định rằng nếu trường hợp một đôi vợ chồng đến thăm làng và nghỉ đêm ở lại chỉ có người chồng được nghỉ ở gian khách còn người vợ sẽ đựợc gửi đến một hộ nào đó để nghỉ. Gian khách của ngôi nhà dài còn là nơi diễn ra các hoạt động chung của làng. Trong phòng khách còn có cây cột to (âr rông mông), nơi để chum rượu lớn buộc vào đó cho chắc chắn.
Tất cả của cải như chum, trống, thanh la, v.v. đều để ở gian khách, không bao giờ xảy ra trường hợp mất hay cầm nhầm. Nếu có việc lớn như tổ chức lễ aja cũng đưa khách về ở gian khách. Gian khách cũng là chỗ thanh niên, ở chỗ đó có chăn chiếu riêng cho thanh niên. Tổ chức việc uống rượu vào dịp khánh thành nhà, cưới xin, mừng con rể, đàn ông vui chơi... đều diễn ra ở gian giữa, đàn bà nấu nướng ở các nơi.
Khi trong nhà có người chết người ta đưa người chết ra bằng lối cửa phụ, không đưa ra lối hành lang vì sợ xui xẻo, bệnh tật ảnh hưởng đến các hộ khác. Khi khách sẽ dọn dẹp đồ đạc trong từng hộ gia đình.
Ở giữa nhà dài là hành lang (ka nang) đi lại dọc theo ngôi nhà dẫn đến từng hộ gia đình. Đây là chỗ thông thoáng không để bất cứ đồ đạc gì trên khoảng không đó, kể cả việc ngồi trên hành lang cũng không được phép, ông già làng là người thường xuyên nhắc nhở công việc đó. Khi một hộ gia đình có con trai lớn lấy vợ mà chưa có điều kiện nối thêm nhà dài thì đôi vợ chồng đó vẫn ở chung với bố mẹ. Ở với cha mẹ chừng một năm khi đã có con cái thì tách khỏi bố mẹ và nối thêm chiều dài của ngôi nhà sau khi xin ý kiến của tập thể. Ví dụ ở ngôi nhà dài hộ A có con lấy vợ, sau đó đôi vợ chồng đó sinh con. Làng sẽ làm thêm một gian ở phía đầu hồi và xin cho hộ kế tiếp với hộ A chuyển dịch ra phía đầu hồi, cứ như thế đối với các hộ tiếp theo. Phụ nữ không được đi theo lối hành lang của ngôi nhà khi vào gian khách trừ khi mang thức ăn cho khách, và không được ăn tại nhà khách.
Ở giữa ngôi nhà dài người Tà Ôi thường làm một cái thang đi lên gian khách. Cầu thang này chỉ có đàn ông và khách mời mới được đi lại, phụ nữ không được phép sử dụng cầu thang này như lối lên.
Phụ nữ khi sinh nở được làm một cái lán nhỏ bằng cách đan một cái sạp bằng tấm liếp quây xung quanh để che chắn gió. Sau khi sinh khoảng một tuần đó cũng là nơi tắm giặt cho sạch sẽ.
Mặt bằng sinh hoạt ngôi nhà dài
Bếp của mỗi hộ sẽ được làm ở giữa nhà, phía trên có một giàn treo, chỗ ngủ của gia đình là sàn nhà. Khi ngủ người ta xoay chân về phía bếp lửa. Cho đến năm 1972 khi làng chuyển về Việt Nam định cư thì cách nằm ngủ của phần lớn người Tà Ôi vẫn như vậy. Củi dùng để nấu nướng hay sưởi ấm được người phụ nữ Tà Ôi kiếm, lượm mỗi khi đi nương rẫy hoặc đi rừng, một vài bó củi đun để xung quanh bếp, phần lớn số củi còn lại để dưới gầm sàn. Sàn nhà cao 1,50 m. Phía dưới sàn người ta quây các chuồng nhỏ để nuôi gia cầm. Kho thóc không được làm gần nhà dài mà được làm ở ngoài bìa rừng, người Tà Ôi sợ hỏa hoạn sẽ làm cho kho thóc cháy sẽ mất nguồn lương thực. Thóc ăn hàng ngày được để trên gác mái nhà dài. Đồ đạc quí hiếm được để trong các Krúh - một loại gùi đan hình trụ có nắp - được đặt gần vách nhà hoặc treo trên mái.
Dân tộc Tà Ôi là một dân tộc thiểu số tại Việt Nam, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Dân tộc Tà Ôi còn được có nhiều tên gọi khác nhau như Tôi Ôi, Pa Cô, Ba Hi hay Pa Hi, có số dân khoảng 26.000 người sinh sống tập trung ở khu vực miền núi phía Tây miền trung Việt nam, trong địa phận các huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế và hai huyện Hướng Hóa và DaKrong thuộc tỉnh Quảng Trị. Người Tà Ôi trước đây làm rẫy là chính, gần đây ở một số nơi đồng bào làm ruộng nước, có vườn cây ăn quả, đào ao thả cá.
Tổ chức cộng đồng
Làng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộng kiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoài rìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung.
Từng dòng họ người Tà Ôi có riêng tên gọi, có kiêng kỵ nhất định, có truyền thuyết lý giải về tên gọi và điều kiêng cữ ấy. Con cái đều lấy họ theo cha, chỉ con trai được thừa hưởng gia tài. Trưởng họ đóng vai trò quan trọng trong cả việc làng.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Tà Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C.
Tục lệ ma chay
Người Tà Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cải táng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờ rào mồ.
Văn hóa
Người Tà Ôi có nhiều tục ngữ, ca dao, câu đố, có nhiều truyện cổ kể các chủ đề phong phú: nguồn gốc tộc người, nguồn gốc dòng họ, cuộc đấu tranh giữa kẻ giàu với người nghào, giữa cái thiện với cái ác, tình yêu chung thủy v.v... Dân ca có các điệu Ka-lơi, Ba-boih, Rơin và đặc biệt là điệu cha chấp trữ tình. Chiêng, cồng, đàn, sáo, kèn, trống, khèn là những loại nhạc cụ thường gặp ở vùng đồng bào Tà Ôi.
Nhà cửa
Nhà ở của người Ta Ôi là nhà sàn dài phổ biến tại nhiều vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Nhìn bề ngoài, nhà Ta Ôi kể cả nhà sàn và nhà đất đều có nó hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình hai đầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dân tộc.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt của nhà ở thống nhất trong toàn dân tộc. Trung tâm của ngôi nhà là căn mong: nơi thờ tự, tiếp khách, hội họp chung của mọi thành viên trong nhà. Diện tích còn lại được ngăn thành từng buồng (a song): chỗ ở và sinh hoạt của các gia đình. Thông thường thì các buồng được bố trí thành hai hàng theo chiều dọc. Ở giữa là hành lang dành để đi lại. Đến nay ở những nhà đất người ta vẫn duy trì bố cục bên trong nhà như vậy.
Trang phục
Cá tính tộc người không rõ nét, nổi bật mà có sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hóa khác trên trang phục. Đồ trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm, xương là phổ biến. Tục cà răng, căng tai, xăm mình, để tóc lá bài trước trán đã phai nhạt đi.
* Trang phục nam: Nam giới đóng khố, mặc áo hoặc ở trần.
* Trang phục nữ: Phụ nữ có áo, váy, có nơi dùng loại váy dài kéo lên che ngực thay áo.
Nhà dài (đinh a choar)
Sau năm 1975 nhà nước có chủ trương xóa bỏ nhà dài, tách thành những hộ riêng biệt vì vậy cho tới nay nhà dài ở vùng người Tà Ôi không còn nữa. Vào năm 1973 khi chuyển cư về Việt Nam làng A Hươr có 3 ngôi nhà dài. Theo lời kể của những người trong làng: trước đây mỗi họ ở một ngôi nhà dài, những họ đông có tới trên 20 hộ sinh sống trong một nhà dài. Mỗi hộ có tới 5-6 người có bếp lửa riêng.
Mặt bằng sinh hoạt của nhà dài
Gian khách được bố trí ở giữa nhà dài, gọi là moong. Hai đầu hồi của nhà đều có cầu thang chính bắc lên nhà. Cầu thang chính thường được dùng để đón khách. Ở mỗi hộ có các cầu thang phụ nhỏ bắc vào sườn nhà đi vào từng hộ. Mỗi hộ có một bếp (apoh) riêng. Tại gian khách cũng bố trí một bếp lửa. Trước đây khi nhà dài có khách đến thăm thì 4 hộ ở xung quanh gian khách là những hộ tiếp khách đầu tiên, sau đó mới đến các hộ tiếp theo lần lượt mang thức ăn đến phòng khách mời khách ăn uống. Đây còn là nơi để cho khách ngủ đêm lại. Những hộ ở gần gian khách có nhiệm vụ thông báo cho các hộ khác để tiếp khách. Khách đến được mời hút thuốc, uống rượu, được mời ăn mía, chuối, lạc, được mang chiếu và gối để ở. Khách ăn cơm có các hộ xung quanh nhà lần lượt mang cơm đến, khách ngủ dậy được mang bầu nước để rửa mặt, sau đó được mời ăn sáng.
Khi săn được con thú nhỏ cũng có thể chia phần thức ăn đó ở gian khách, thức ăn được chia vào lá chuối, rồi mới gọi các hộ đến nhận thức ăn.
Tại những cột nhà dài người ta treo sừng trâu, sừng bò sau mỗi lần gia đình nào đó tổ chức hiến tế. Trước đây người Tà Ôi tại làng có quy định rằng nếu trường hợp một đôi vợ chồng đến thăm làng và nghỉ đêm ở lại chỉ có người chồng được nghỉ ở gian khách còn người vợ sẽ đựợc gửi đến một hộ nào đó để nghỉ. Gian khách của ngôi nhà dài còn là nơi diễn ra các hoạt động chung của làng. Trong phòng khách còn có cây cột to (âr rông mông), nơi để chum rượu lớn buộc vào đó cho chắc chắn.
Tất cả của cải như chum, trống, thanh la, v.v. đều để ở gian khách, không bao giờ xảy ra trường hợp mất hay cầm nhầm. Nếu có việc lớn như tổ chức lễ aja cũng đưa khách về ở gian khách. Gian khách cũng là chỗ thanh niên, ở chỗ đó có chăn chiếu riêng cho thanh niên. Tổ chức việc uống rượu vào dịp khánh thành nhà, cưới xin, mừng con rể, đàn ông vui chơi... đều diễn ra ở gian giữa, đàn bà nấu nướng ở các nơi.
Khi trong nhà có người chết người ta đưa người chết ra bằng lối cửa phụ, không đưa ra lối hành lang vì sợ xui xẻo, bệnh tật ảnh hưởng đến các hộ khác. Khi khách sẽ dọn dẹp đồ đạc trong từng hộ gia đình.
Ở giữa nhà dài là hành lang (ka nang) đi lại dọc theo ngôi nhà dẫn đến từng hộ gia đình. Đây là chỗ thông thoáng không để bất cứ đồ đạc gì trên khoảng không đó, kể cả việc ngồi trên hành lang cũng không được phép, ông già làng là người thường xuyên nhắc nhở công việc đó. Khi một hộ gia đình có con trai lớn lấy vợ mà chưa có điều kiện nối thêm nhà dài thì đôi vợ chồng đó vẫn ở chung với bố mẹ. Ở với cha mẹ chừng một năm khi đã có con cái thì tách khỏi bố mẹ và nối thêm chiều dài của ngôi nhà sau khi xin ý kiến của tập thể. Ví dụ ở ngôi nhà dài hộ A có con lấy vợ, sau đó đôi vợ chồng đó sinh con. Làng sẽ làm thêm một gian ở phía đầu hồi và xin cho hộ kế tiếp với hộ A chuyển dịch ra phía đầu hồi, cứ như thế đối với các hộ tiếp theo. Phụ nữ không được đi theo lối hành lang của ngôi nhà khi vào gian khách trừ khi mang thức ăn cho khách, và không được ăn tại nhà khách.
Ở giữa ngôi nhà dài người Tà Ôi thường làm một cái thang đi lên gian khách. Cầu thang này chỉ có đàn ông và khách mời mới được đi lại, phụ nữ không được phép sử dụng cầu thang này như lối lên.
Phụ nữ khi sinh nở được làm một cái lán nhỏ bằng cách đan một cái sạp bằng tấm liếp quây xung quanh để che chắn gió. Sau khi sinh khoảng một tuần đó cũng là nơi tắm giặt cho sạch sẽ.
Mặt bằng sinh hoạt ngôi nhà dài
Bếp của mỗi hộ sẽ được làm ở giữa nhà, phía trên có một giàn treo, chỗ ngủ của gia đình là sàn nhà. Khi ngủ người ta xoay chân về phía bếp lửa. Cho đến năm 1972 khi làng chuyển về Việt Nam định cư thì cách nằm ngủ của phần lớn người Tà Ôi vẫn như vậy. Củi dùng để nấu nướng hay sưởi ấm được người phụ nữ Tà Ôi kiếm, lượm mỗi khi đi nương rẫy hoặc đi rừng, một vài bó củi đun để xung quanh bếp, phần lớn số củi còn lại để dưới gầm sàn. Sàn nhà cao 1,50 m. Phía dưới sàn người ta quây các chuồng nhỏ để nuôi gia cầm. Kho thóc không được làm gần nhà dài mà được làm ở ngoài bìa rừng, người Tà Ôi sợ hỏa hoạn sẽ làm cho kho thóc cháy sẽ mất nguồn lương thực. Thóc ăn hàng ngày được để trên gác mái nhà dài. Đồ đạc quí hiếm được để trong các Krúh - một loại gùi đan hình trụ có nắp - được đặt gần vách nhà hoặc treo trên mái.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
6. Nhà ở
Nhà ở theo theo lối truyền thống hiện nay rất hiếm, kiểu nhà truyền thống được người Tà Ôi gọi là doang. Cả làng hiện nay chỉ còn có một hộ duy nhất xây dựng nhà theo lối truyền thống, đó là gia đình nhà ông Quỳnh Vâng. Đây là hộ chuyển từ Lào đến nhập cư vào làng năm 1996, đến năm 1997 ông đã làm nhà theo dạng truyền thống. Dụng cụ làm nhà chỉ có rìu, dao để đẽo.
Khi chọn được một mảnh đất ưng ý với các tiêu chí như sau: đất bằng phẳng, gần nguồn nước, gần chỗ ở người dân cùng làng, chủ nhà tiến hành việc xem các thần có cho phép mình ở chỗ đất đó hay không. Người ta chọn từ 6 đến 10 hạt gạo rồi đào trên mảnh đất đó một lỗ nhỏ, bỏ gạo vào lỗ đó và thắp hương. Khi hương cháy hết, chủ nhà lấy hạt gạo ra xem. Nếu các thần cho phép dựng nhà ở chỗ đó thì hạt gạo không bị gãy, bị hỏng, trường hợp không được phép hạt gạo sẽ thành bột, bị gãy, vụn.
Nhà người Tà Ôi được dựng ở phía chếch Mặt Trời, khi Mặt Trời lên cao ánh sáng chiếu thẳng vào hướng cửa nhà là không tốt. Trước đây nhà người Tà Ôi được làm trước tháng 6 để tránh mưa gió. Khi dựng cột nhà phải xem giờ, khoảng 4-5 giờ sáng, lúc Mặt Trời chưa mọc, chưa có chim hoặc hoãng kêu, người Tà Ôi quan niệm thần nhà không thích nhiều tiếng động của chim thú sẽ gây ra rủi ro.
Ngày dựng cột chính, hương được thắp theo lối dân tộc, người ta dùng một cái giỏ có chân bỏ vào: 6 chén, thịt gà. Khi cúng già làng sẽ là người chủ tế, mọi người đứng ở xung quanh. Các trường hợp chuyển nhượng nhà sau khi mua cũng phải làm lễ cúng, ví dụ: nhà Kê Văn Tham mua của Hồ Viên Pả, khi chuyển về ở phải tổ chức lễ cúng, đồ cúng có: gà sống, tấm rèng, chén rượu.
Nhà của ông Quỳnh Vâng được làm theo lối cổ truyền có chiều dài 5,40 m chiều rộng 4,20 m, tổng diện tích của nhà là 22,68 mét vuông. Trên một đơn vị diện tích mặt bằng đó bố trí các công năng của nhà như sau: Hai đầu hồi nhà phía đông và phía tây là phía cửa ra vào với cầu thang (kpong) đi lên, cửa chính có chiều cao 1m30 chiều rộng 70 cm. Phía tây có một bếp lửa hình vuông có chiều rộng 1m vuông làm chỗ nấu nướng, trên bếp có để một gác để ngô, sắn và các loại thức ăn. Đối diện với bếp lửa là chỗ nằm của ông chủ nhà có dải một chiếc chiếu làm nơi nằm ngủ. Nhà có 3 cửa sổ (a loang a be) có chiều cao dài 93 cm chiều rộng 66 cm. Nhà ở có 6 cột chính (non) các xà gắn kết với cột chính theo nguyên tắc ngòam, khi dựng nhà người Tà ôi cũng dựng những cột chính này đầu tiên. Sau đó là các xà dọc liên kết tạo thành khung nhà. Tiếp theo là các bộ kèo cột, các đòn tay (ploi). Mái nhà được lợp tranh, vách nhà (ner) được đan bằng lồ ô đập dập đan vào nhau. Nhà ông Quỳnh Vâng làm năm 1997 tại làng là ngôi nhà duy nhất tính đến thời điểm hiện nay được làm theo phương pháp cổ truyền.
Khi khánh thành nhà vào năm 1997, Quỳnh Vâng làm cá, gà nướng, đồng thời được sự hỗ trợ của con rể chuẩn bị cho một con bò để làm lễ mừng nhà mới. Địa điểm đâm bò nằm ở phía trước sân nhà. Lễ khánh thành nhà ngoài việc giết thịt một con bò, một con lợn, gà buộc xung quanh cột phía trước nhà. Nam nữ còn đánh chiêng trống đi xung quanh ngôi nhà và quanh các con vật hiến tế. Sau khi các con vật hiến tế bị giết, số thịt được chia cho mọi người ở trong làng ăn uống.
Tín ngưỡng
Hồn vía và các siêu linh
Người Tà Ôi quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tín ngưỡng đa thần chi phối hầu hết các mặt trong cuộc sống của họ. Trong thế giới thần linh của người Tà Ôi trước tiên phải kể đến hồn.
Trước tiên là hồn, hồn được nằm ở khoảng từ ngực cho đến đầu khi người còn sống. Khi người chết rồi thì cũng chỉ có một hồn (avai ving) và hồn đó lang thang ở nghĩa địa. Khi người chết không bằng lòng với gia đình thì hồn này về quấy phá người sống. Trong các dịp cúng lễ hồn của người chết cũng thường về thông qua những giấc mơ (am bo) của người sống. Theo người Tà Ôi thì hồn được hóa thân như tiếng nói, hoặc hồn có thể tạo ra một sức mạnh tác động đến vật thể khác, ví dụ như hồn có thể về gõ cửa. Người Tà Ôi còn cho rằng người chết sau 3 ngày thì có thể quay trở về đòi của cải nếu không được người sống chia cho. Cũng từ cách suy nghĩ trên mà người Tà Ôi còn dùng cách rải tro ở trước cửa để nhìn thấy dấu chân của hồn về sau khi có người nhà chết. Năm 2003 khi ông Võ Dậu mất, bà Ka Dậu là vợ dùng tro rải trước thềm và thấy ông bước chân của ông in trên tro, đúng là ông đã về. Có nhiều người còn thấy hồn về với tiếng động như rót nước hoặc lấy thức ăn trong nồi. Người Tà Ôi nói sau khi chết 3 ngày, người chết mới thật sự biết mình mất, trước đó thì không biết, như một người mơ ngủ không tỉnh không say. Hồn xấu là những người chết thiêng, nhất là đàn bà chết do sinh nở, chết bị hổ vồ, người chết ở dạng này hay hiện ra mộ kêu khóc và trêu chọc người sống. Người chết có thể về xin các đồ vật như quần áo, gùi, dao... Lúc này gia đình của người chết có thể dùng lá chuối cắt thành hình chữ T thay cho áo, cắt hình chữ V thay cho quần. Người giàu có thì dùng 2 tấm vải vứt ra ngoài và nói tôi đã cho, đừng xin thêm và phải phù hộ cho tôi. Trường hợp không bằng lòng hồn có thể về làm cho người sống đau ốm, hoặc làm các công việc bị mắc nợ, không trôi chảy.
Ma (brau briêu) đây là loại ma rừng có thể phù hộ cho người sống tuy nhiên cũng có thể gây ra ốm đau bệnh tật. Theo người Tà Ôi thì ma brau briêu có thể sai khiến được hổ, rắn, muông thú để làm hại người.
Trước đây hàng năm người Tà Ôi có tổ chức cúng các giàng: trời (abang), thần đất (katek) thần rừng (krúm kaek). Tổ chức cúng trời đất phải 10-12 năm một lần, vì khi cúng phải có trâu. Khi làng giàu có, không có người chết, làng được bội thu tổ chức cúng tạ ơn. Các trường hợp làng bị bão lụt, thiên tai cũng tổ chức cúng thần trời, đất, nhà rông, nhà ở. Khi tổ chức đâm trâu cúng cho trời có 12 loại thức ăn, cúng đất là 8 loại thức ăn, cúng cho giàng kmưk là 5 loại thức ăn: trâu, lợn, gà, tiết canh, món nướng, món thái, làm canh làm xôi. Cơm được để trong chén và rót nước đót, có chum nhỏ và chén nhỏ rồi thắp hương.
Thần nước (giàng đak)
Thần nước được người Tà Ôi hình dung là một người đàn ông thấp, bé nhỏ có râu tóc bạc phơ. Thần nước còn có thể ban cho người dân nhiều cá ăn, trong truyền thuyết người Tà Ôi kể rằng thần nước tạo ra cá bằng cách bỏ hạt gạo vào lá chuối rồi đưa chỗ suối, những hạt gạo sẽ biến thành cá và người ta sẽ bắt được nhiều cá. Khi ở bên Lào các ông Quỳnh Say, Quỳnh Chay đã từng nhìn thấy thần nước ở chỗ đầu ngọn thác, gọi là Avó còn có nghĩa là bác thể hiện tôn trọng của người Tà Ôi (có thể họ chỉ hình dung như vậy). Thần nước có mối liên hệ đặc biệt với lễ khánh thành bến nước, lần đầu tiên khi làm bến nước, nước được dẫn về làng qua các ống lồ-ô, lúc này không người nào được sử dụng nước. Các trưởng họ và già làng đem con gà còn sống cầu mong cho nước ăn không đau bụng, nguồn nước không bao giờ tắt. Sau khi cúng xong giết gà bên nhà rông và lấy máu chôn ở chỗ có nước. Chỗ cột cuối cùng có vòi nước được làm rất đẹp và chôn máu gà (sôl rtang dak) được làm và sửa hàng năm. Nước lần đầu tiên khi sử dụng dân làng phải làm một con gà, một con lợn, một con dê không cho người làng khác được sử dụng. Lúc đó già làng sẽ làm lễ cúng mời thần nước (aul –avó dak).
Thần chỗ ở gia đình (giàng an teng)
Trước đây người Tà Ôi ở trong những ngôi nhà dài, mỗi gia đình sở hữu một gian trong ngôi nhà dài. Trong khoảng không gian đó người Tà Ôi đều thờ thần chỗ ở gia đình của mình. Thần chỗ ở gia đình thường xuất hiện từ giấc mơ của chủ nhà, khi ngủ người Tà Ôi mơ thấy thần chỗ ở gia đình nhập vào tấm khố, tấm rèng hay bất cứ đồ vật nào thì người ta sẽ bỏ đồ vật đó vào cái kang (một loại gùi được đan đặc biệt) và để ở góc nhà. Chủ nhà sẽ làm một con gà để làm lễ cúng nhập giàng an teng vào hộ gia đình mình. Kể từ thời điểm đó, bất cứ gia đình có công việc gì như đám ma, đám cưới, cúng thần rừng, thần nước thì đều tiến hành cúng thần nhà. Đặc biệt trong mỗi dịp gia đình có hoàn thành một công việc gì người ta đều cho rằng có sự trợ giúp của thần chỗ ở gia đình, trong các dịp bình thường khi cúng thì không cần mở kang có đồ vật mà giàng đã nhập vào. Trong năm chỉ có dịp dân làng tổ chức aja thì hộ gia đình đó mới mở kang để lấy đồ vật ra cúng, thường đồ vật này được mang ra nhà rông để làm lễ cúng. Khi kang-chỗ ngự trị của thần chỗ ở gia đình được đặt ở góc nhà khi làm lễ cúng, chủ nhà thường để cơm, gạo, thịt phía trước kang để cúng.
Thần nhà dài (giàng đanh)
Trong ngôi nhà dài có nhiều hộ gia đình sinh sống thì thần nhà dài (giàng đeng) ngự ở gian khách. Chủ nhà dài sẽ làm một cái nhà nhỏ để thần nhà ngự ở trong đó và treo ở dưới nóc nhà. Trong gia đình có người bị đau ốm hay xảy ra bất cứ công việc gì người ta cúng thần gia đình xong thì đều cúng thần nhà dài. Khi làng có dịp gì chủ nhà dài đều cúng thần nhà dài, trước đây có quy định các hộ trong nhà dài khi ăn dê, trâu, bò đều phải cầu cúng cho thần nhà dài được biết.
Thần hổ (giàng avó)
Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng. Việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng. Xuất phát từ giấc mơ ngẫu nhiên, trong làng có người làm loại bẫy to (tì hò), người chủ bẫy về đến nhà mơ thấy con hổ (a vó bok) báo mộng, khi đó người chủ bẫy mơ thấy hổ xin ở lại với làng. Khi hổ mắc bẫy người ta tổ chức cúng thần rừng với các đồ vật hiến tế như sôl, leo, chuẩn bị hạt mã não, tấm rèng. Việc tổ chức cúng tạ ơn thần rừng được làm chu đáo, sau đó người ta mới cắt đầu hổ rồi mang về làng. Một nhóm thanh niên làm nhà mồ cho hổ (ping a vó), khi làm xong nhà mồ thì chưa đặt đầu hổ vào bên trong. Làng tổ chức lễ hiến sinh bằng cách giết thịt một con dê, một con gà, một con lợn để khánh thành ngôi nhà mồ đó. Các đồ cúng được đặt trong mâm để trong nhà mồ. Chủ làng sẽ nói: hổ muốn ở lại làng phải bảo vệ làng không được để cho người chết, khi có xung đột, chiến tranh giữa các làng khác phải thông báo sớm qua giấc mơ. Nếu có người phá phách hoặc đốt làng, phải phạt người đó. Khi tiến hành việc cúng đầu hổ không cho phụ nữ mang thai vào nhà mồ, người khách lạ cũng không được vào. Nếu khách ở làng khác đến chơi phải báo trước cho chủ làng.
Hàng năm người ta vẫn đến tiến hành thăm nhà mồ có đầu hổ. Trong các thôn của xã Nhâm chỉ có làng Nhâm I còn có tục thờ thần hổ, làng Ka Linh, Tà Kêu trước đây ở bên Lào cũng có. Từ chiến tranh chống Mỹ cho đến nay người ta không còn giữ thủ tục này.
Vị trí của ngôi nhà mồ dành riêng cho hổ được chôn ở phía trên nhà mồ của người, không ai có quyền vào khu nhà mồ của hổ. Nhà mồ của hổ được rào bằng đá xung quanh. Ở giữa ngôi nhà mồ người ta để hòn đá, trên hòn đá người ta đặt chiếc đầu hổ, người ta cũng chia cho hổ các vật dụng như: vòng tay, bát đựng thức ăn, tấm rèng, sừng trâu, bò, hàm răng lợn. Các loại đồ thờ cúng này ông già làng phải phân bổ cho các hộ chuẩn bị.
Hàng năm khi người Tà Ôi tiến hành tổ chức ăn năm mới, hay cúng khánh thành nhà rông, thần hổ đều được chia phần, khi tuốt lúa mới phải thổi cơm dành phần cho thần hổ ăn. Một năm tổ chức vệ sinh cho khu nhà mồ hổ một lần, khách ngoài làng không được phép vào trong khu nhà mồ đó. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin rằng hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp chuyện chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong làng. Trước đây ở bên Lào có nhiều trường hợp một làng thờ đến 2 đầu hổ.
Nhà ở theo theo lối truyền thống hiện nay rất hiếm, kiểu nhà truyền thống được người Tà Ôi gọi là doang. Cả làng hiện nay chỉ còn có một hộ duy nhất xây dựng nhà theo lối truyền thống, đó là gia đình nhà ông Quỳnh Vâng. Đây là hộ chuyển từ Lào đến nhập cư vào làng năm 1996, đến năm 1997 ông đã làm nhà theo dạng truyền thống. Dụng cụ làm nhà chỉ có rìu, dao để đẽo.
Khi chọn được một mảnh đất ưng ý với các tiêu chí như sau: đất bằng phẳng, gần nguồn nước, gần chỗ ở người dân cùng làng, chủ nhà tiến hành việc xem các thần có cho phép mình ở chỗ đất đó hay không. Người ta chọn từ 6 đến 10 hạt gạo rồi đào trên mảnh đất đó một lỗ nhỏ, bỏ gạo vào lỗ đó và thắp hương. Khi hương cháy hết, chủ nhà lấy hạt gạo ra xem. Nếu các thần cho phép dựng nhà ở chỗ đó thì hạt gạo không bị gãy, bị hỏng, trường hợp không được phép hạt gạo sẽ thành bột, bị gãy, vụn.
Nhà người Tà Ôi được dựng ở phía chếch Mặt Trời, khi Mặt Trời lên cao ánh sáng chiếu thẳng vào hướng cửa nhà là không tốt. Trước đây nhà người Tà Ôi được làm trước tháng 6 để tránh mưa gió. Khi dựng cột nhà phải xem giờ, khoảng 4-5 giờ sáng, lúc Mặt Trời chưa mọc, chưa có chim hoặc hoãng kêu, người Tà Ôi quan niệm thần nhà không thích nhiều tiếng động của chim thú sẽ gây ra rủi ro.
Ngày dựng cột chính, hương được thắp theo lối dân tộc, người ta dùng một cái giỏ có chân bỏ vào: 6 chén, thịt gà. Khi cúng già làng sẽ là người chủ tế, mọi người đứng ở xung quanh. Các trường hợp chuyển nhượng nhà sau khi mua cũng phải làm lễ cúng, ví dụ: nhà Kê Văn Tham mua của Hồ Viên Pả, khi chuyển về ở phải tổ chức lễ cúng, đồ cúng có: gà sống, tấm rèng, chén rượu.
Nhà của ông Quỳnh Vâng được làm theo lối cổ truyền có chiều dài 5,40 m chiều rộng 4,20 m, tổng diện tích của nhà là 22,68 mét vuông. Trên một đơn vị diện tích mặt bằng đó bố trí các công năng của nhà như sau: Hai đầu hồi nhà phía đông và phía tây là phía cửa ra vào với cầu thang (kpong) đi lên, cửa chính có chiều cao 1m30 chiều rộng 70 cm. Phía tây có một bếp lửa hình vuông có chiều rộng 1m vuông làm chỗ nấu nướng, trên bếp có để một gác để ngô, sắn và các loại thức ăn. Đối diện với bếp lửa là chỗ nằm của ông chủ nhà có dải một chiếc chiếu làm nơi nằm ngủ. Nhà có 3 cửa sổ (a loang a be) có chiều cao dài 93 cm chiều rộng 66 cm. Nhà ở có 6 cột chính (non) các xà gắn kết với cột chính theo nguyên tắc ngòam, khi dựng nhà người Tà ôi cũng dựng những cột chính này đầu tiên. Sau đó là các xà dọc liên kết tạo thành khung nhà. Tiếp theo là các bộ kèo cột, các đòn tay (ploi). Mái nhà được lợp tranh, vách nhà (ner) được đan bằng lồ ô đập dập đan vào nhau. Nhà ông Quỳnh Vâng làm năm 1997 tại làng là ngôi nhà duy nhất tính đến thời điểm hiện nay được làm theo phương pháp cổ truyền.
Khi khánh thành nhà vào năm 1997, Quỳnh Vâng làm cá, gà nướng, đồng thời được sự hỗ trợ của con rể chuẩn bị cho một con bò để làm lễ mừng nhà mới. Địa điểm đâm bò nằm ở phía trước sân nhà. Lễ khánh thành nhà ngoài việc giết thịt một con bò, một con lợn, gà buộc xung quanh cột phía trước nhà. Nam nữ còn đánh chiêng trống đi xung quanh ngôi nhà và quanh các con vật hiến tế. Sau khi các con vật hiến tế bị giết, số thịt được chia cho mọi người ở trong làng ăn uống.
Tín ngưỡng
Hồn vía và các siêu linh
Người Tà Ôi quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tín ngưỡng đa thần chi phối hầu hết các mặt trong cuộc sống của họ. Trong thế giới thần linh của người Tà Ôi trước tiên phải kể đến hồn.
Trước tiên là hồn, hồn được nằm ở khoảng từ ngực cho đến đầu khi người còn sống. Khi người chết rồi thì cũng chỉ có một hồn (avai ving) và hồn đó lang thang ở nghĩa địa. Khi người chết không bằng lòng với gia đình thì hồn này về quấy phá người sống. Trong các dịp cúng lễ hồn của người chết cũng thường về thông qua những giấc mơ (am bo) của người sống. Theo người Tà Ôi thì hồn được hóa thân như tiếng nói, hoặc hồn có thể tạo ra một sức mạnh tác động đến vật thể khác, ví dụ như hồn có thể về gõ cửa. Người Tà Ôi còn cho rằng người chết sau 3 ngày thì có thể quay trở về đòi của cải nếu không được người sống chia cho. Cũng từ cách suy nghĩ trên mà người Tà Ôi còn dùng cách rải tro ở trước cửa để nhìn thấy dấu chân của hồn về sau khi có người nhà chết. Năm 2003 khi ông Võ Dậu mất, bà Ka Dậu là vợ dùng tro rải trước thềm và thấy ông bước chân của ông in trên tro, đúng là ông đã về. Có nhiều người còn thấy hồn về với tiếng động như rót nước hoặc lấy thức ăn trong nồi. Người Tà Ôi nói sau khi chết 3 ngày, người chết mới thật sự biết mình mất, trước đó thì không biết, như một người mơ ngủ không tỉnh không say. Hồn xấu là những người chết thiêng, nhất là đàn bà chết do sinh nở, chết bị hổ vồ, người chết ở dạng này hay hiện ra mộ kêu khóc và trêu chọc người sống. Người chết có thể về xin các đồ vật như quần áo, gùi, dao... Lúc này gia đình của người chết có thể dùng lá chuối cắt thành hình chữ T thay cho áo, cắt hình chữ V thay cho quần. Người giàu có thì dùng 2 tấm vải vứt ra ngoài và nói tôi đã cho, đừng xin thêm và phải phù hộ cho tôi. Trường hợp không bằng lòng hồn có thể về làm cho người sống đau ốm, hoặc làm các công việc bị mắc nợ, không trôi chảy.
Ma (brau briêu) đây là loại ma rừng có thể phù hộ cho người sống tuy nhiên cũng có thể gây ra ốm đau bệnh tật. Theo người Tà Ôi thì ma brau briêu có thể sai khiến được hổ, rắn, muông thú để làm hại người.
Trước đây hàng năm người Tà Ôi có tổ chức cúng các giàng: trời (abang), thần đất (katek) thần rừng (krúm kaek). Tổ chức cúng trời đất phải 10-12 năm một lần, vì khi cúng phải có trâu. Khi làng giàu có, không có người chết, làng được bội thu tổ chức cúng tạ ơn. Các trường hợp làng bị bão lụt, thiên tai cũng tổ chức cúng thần trời, đất, nhà rông, nhà ở. Khi tổ chức đâm trâu cúng cho trời có 12 loại thức ăn, cúng đất là 8 loại thức ăn, cúng cho giàng kmưk là 5 loại thức ăn: trâu, lợn, gà, tiết canh, món nướng, món thái, làm canh làm xôi. Cơm được để trong chén và rót nước đót, có chum nhỏ và chén nhỏ rồi thắp hương.
Thần nước (giàng đak)
Thần nước được người Tà Ôi hình dung là một người đàn ông thấp, bé nhỏ có râu tóc bạc phơ. Thần nước còn có thể ban cho người dân nhiều cá ăn, trong truyền thuyết người Tà Ôi kể rằng thần nước tạo ra cá bằng cách bỏ hạt gạo vào lá chuối rồi đưa chỗ suối, những hạt gạo sẽ biến thành cá và người ta sẽ bắt được nhiều cá. Khi ở bên Lào các ông Quỳnh Say, Quỳnh Chay đã từng nhìn thấy thần nước ở chỗ đầu ngọn thác, gọi là Avó còn có nghĩa là bác thể hiện tôn trọng của người Tà Ôi (có thể họ chỉ hình dung như vậy). Thần nước có mối liên hệ đặc biệt với lễ khánh thành bến nước, lần đầu tiên khi làm bến nước, nước được dẫn về làng qua các ống lồ-ô, lúc này không người nào được sử dụng nước. Các trưởng họ và già làng đem con gà còn sống cầu mong cho nước ăn không đau bụng, nguồn nước không bao giờ tắt. Sau khi cúng xong giết gà bên nhà rông và lấy máu chôn ở chỗ có nước. Chỗ cột cuối cùng có vòi nước được làm rất đẹp và chôn máu gà (sôl rtang dak) được làm và sửa hàng năm. Nước lần đầu tiên khi sử dụng dân làng phải làm một con gà, một con lợn, một con dê không cho người làng khác được sử dụng. Lúc đó già làng sẽ làm lễ cúng mời thần nước (aul –avó dak).
Thần chỗ ở gia đình (giàng an teng)
Trước đây người Tà Ôi ở trong những ngôi nhà dài, mỗi gia đình sở hữu một gian trong ngôi nhà dài. Trong khoảng không gian đó người Tà Ôi đều thờ thần chỗ ở gia đình của mình. Thần chỗ ở gia đình thường xuất hiện từ giấc mơ của chủ nhà, khi ngủ người Tà Ôi mơ thấy thần chỗ ở gia đình nhập vào tấm khố, tấm rèng hay bất cứ đồ vật nào thì người ta sẽ bỏ đồ vật đó vào cái kang (một loại gùi được đan đặc biệt) và để ở góc nhà. Chủ nhà sẽ làm một con gà để làm lễ cúng nhập giàng an teng vào hộ gia đình mình. Kể từ thời điểm đó, bất cứ gia đình có công việc gì như đám ma, đám cưới, cúng thần rừng, thần nước thì đều tiến hành cúng thần nhà. Đặc biệt trong mỗi dịp gia đình có hoàn thành một công việc gì người ta đều cho rằng có sự trợ giúp của thần chỗ ở gia đình, trong các dịp bình thường khi cúng thì không cần mở kang có đồ vật mà giàng đã nhập vào. Trong năm chỉ có dịp dân làng tổ chức aja thì hộ gia đình đó mới mở kang để lấy đồ vật ra cúng, thường đồ vật này được mang ra nhà rông để làm lễ cúng. Khi kang-chỗ ngự trị của thần chỗ ở gia đình được đặt ở góc nhà khi làm lễ cúng, chủ nhà thường để cơm, gạo, thịt phía trước kang để cúng.
Thần nhà dài (giàng đanh)
Trong ngôi nhà dài có nhiều hộ gia đình sinh sống thì thần nhà dài (giàng đeng) ngự ở gian khách. Chủ nhà dài sẽ làm một cái nhà nhỏ để thần nhà ngự ở trong đó và treo ở dưới nóc nhà. Trong gia đình có người bị đau ốm hay xảy ra bất cứ công việc gì người ta cúng thần gia đình xong thì đều cúng thần nhà dài. Khi làng có dịp gì chủ nhà dài đều cúng thần nhà dài, trước đây có quy định các hộ trong nhà dài khi ăn dê, trâu, bò đều phải cầu cúng cho thần nhà dài được biết.
Thần hổ (giàng avó)
Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng. Việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng. Xuất phát từ giấc mơ ngẫu nhiên, trong làng có người làm loại bẫy to (tì hò), người chủ bẫy về đến nhà mơ thấy con hổ (a vó bok) báo mộng, khi đó người chủ bẫy mơ thấy hổ xin ở lại với làng. Khi hổ mắc bẫy người ta tổ chức cúng thần rừng với các đồ vật hiến tế như sôl, leo, chuẩn bị hạt mã não, tấm rèng. Việc tổ chức cúng tạ ơn thần rừng được làm chu đáo, sau đó người ta mới cắt đầu hổ rồi mang về làng. Một nhóm thanh niên làm nhà mồ cho hổ (ping a vó), khi làm xong nhà mồ thì chưa đặt đầu hổ vào bên trong. Làng tổ chức lễ hiến sinh bằng cách giết thịt một con dê, một con gà, một con lợn để khánh thành ngôi nhà mồ đó. Các đồ cúng được đặt trong mâm để trong nhà mồ. Chủ làng sẽ nói: hổ muốn ở lại làng phải bảo vệ làng không được để cho người chết, khi có xung đột, chiến tranh giữa các làng khác phải thông báo sớm qua giấc mơ. Nếu có người phá phách hoặc đốt làng, phải phạt người đó. Khi tiến hành việc cúng đầu hổ không cho phụ nữ mang thai vào nhà mồ, người khách lạ cũng không được vào. Nếu khách ở làng khác đến chơi phải báo trước cho chủ làng.
Hàng năm người ta vẫn đến tiến hành thăm nhà mồ có đầu hổ. Trong các thôn của xã Nhâm chỉ có làng Nhâm I còn có tục thờ thần hổ, làng Ka Linh, Tà Kêu trước đây ở bên Lào cũng có. Từ chiến tranh chống Mỹ cho đến nay người ta không còn giữ thủ tục này.
Vị trí của ngôi nhà mồ dành riêng cho hổ được chôn ở phía trên nhà mồ của người, không ai có quyền vào khu nhà mồ của hổ. Nhà mồ của hổ được rào bằng đá xung quanh. Ở giữa ngôi nhà mồ người ta để hòn đá, trên hòn đá người ta đặt chiếc đầu hổ, người ta cũng chia cho hổ các vật dụng như: vòng tay, bát đựng thức ăn, tấm rèng, sừng trâu, bò, hàm răng lợn. Các loại đồ thờ cúng này ông già làng phải phân bổ cho các hộ chuẩn bị.
Hàng năm khi người Tà Ôi tiến hành tổ chức ăn năm mới, hay cúng khánh thành nhà rông, thần hổ đều được chia phần, khi tuốt lúa mới phải thổi cơm dành phần cho thần hổ ăn. Một năm tổ chức vệ sinh cho khu nhà mồ hổ một lần, khách ngoài làng không được phép vào trong khu nhà mồ đó. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin rằng hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp chuyện chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong làng. Trước đây ở bên Lào có nhiều trường hợp một làng thờ đến 2 đầu hổ.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
43.Người Tày
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi thấp phía Bắc Việt Nam. Người Tày trước đây hay được gọi là người Thổ.
Dân số người Tày vào khoảng 1,5 triệu người. Đây là dân tộc có dân số lớn thứ hai ở Việt Nam sau người Kinh. Những địa phương có nhiều người Tày sinh sống là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh. Họ cũng sinh sống cả ở Bắc Ninh và Bắc Giang hoặc một số tỉnh Tây Nguyên (di cư gần đây). Người Tày sống dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Họ trồng lúa, ngô, khoai lang, v.v...
Người Tày sống định cư, quây quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ.
Người Tày có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang (Trung Quốc).
Người Tày ở nhà sàn. Nhà sàn của người Tày làm bằng gỗ. Mái lợp cỏ gianh.
Quần áo nói chung nhuộm màu chàm.
Lượn là thể loại dân ca nổi tiếng của người Tày hay được các đôi lứa hát cùng.
Người Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ.
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi thấp phía Bắc Việt Nam. Người Tày trước đây hay được gọi là người Thổ.
Dân số người Tày vào khoảng 1,5 triệu người. Đây là dân tộc có dân số lớn thứ hai ở Việt Nam sau người Kinh. Những địa phương có nhiều người Tày sinh sống là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh. Họ cũng sinh sống cả ở Bắc Ninh và Bắc Giang hoặc một số tỉnh Tây Nguyên (di cư gần đây). Người Tày sống dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Họ trồng lúa, ngô, khoai lang, v.v...
Người Tày sống định cư, quây quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ.
Người Tày có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang (Trung Quốc).
Người Tày ở nhà sàn. Nhà sàn của người Tày làm bằng gỗ. Mái lợp cỏ gianh.
Quần áo nói chung nhuộm màu chàm.
Lượn là thể loại dân ca nổi tiếng của người Tày hay được các đôi lứa hát cùng.
Người Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
44.Người Thái
Người Thái còn được gọi là người Tày, Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là con cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.
Dân cư
Tại Việt Nam, người Thái có số dân là 1.000.000 người, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La), Lộc, Lự, Lượng (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.
* Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc Hà Sơn Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc (Hà Sơn Bình) và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
* Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Lai Châu (Điện Biên, Tuần Giáo). Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thành (vùng Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ Tĩnh định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
* Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hà Sơn Bình) và các huyện miền núi Mường Khoòng (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ Tĩnh).
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Ngôn ngữ
Người Thái nói các thứ tiếng thuộc Nhóm ngôn ngữ Tày-Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái Lan, tiếng Lào của người Lào, tiếng bộ tộc Shan ở Miến Điện, và tiếng của tộc Choang ở miền nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, 8 sắc tộc thiểu số gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
Đặc điểm kinh tế
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Văn hóa
Hôn nhân
Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng.
Tục lệ ma chay
Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".
Văn hóa dân gian
Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xon xao, Khun Lú, Nàng Ưửa. Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khăp. khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái.
Nhà cửa
Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam.
Trang phục
Có nhiều nhóm địa phương với những phong cách trang phục khác nhau.
Trang phục nam
Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam giới người Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc điểm của áo cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may (vì cơ bản giống ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc đa dạng của loại vải cổ truyền của cộng đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm, trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà phê... Trong các ngày lễ, tết, họ mặc loại áo dài xẻ nách phải màu chàm, đầu quấn khăn, chân đi guốc. Trong tang lễ họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với lối cắt may dài, thụng, không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu.
Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc âu phục khá phổ biến.
Trang phục nữ
Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo hai ngành Thái Tây Bắc là Thái Trắng (Táy khao) và Thái Đen (Táy đăm)
* Thái Trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái Trắng mặc áo cánh ngắn (xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là màu sáng, trắng, cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong... Cái khác xửa cóm Thái Đen là cổ áo hình chữ V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen, phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi mặc xửa cóm và váy phụ nữ Thái còn tấm choàng ra ngoài được trang trí nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải chàm dài trên dưới 2 mét... Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo đầu thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng vải 'khít' ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành.
* Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn piêu thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc có chồng và chưa chồng cũng giống ngành Thái Trắng. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái Trắng.
Lịch sử
Người Thái có mặt tại Việt Nam đã từ lâu. Theo sách sử Việt Nam, vào thời Lý, đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại nhà Trần và bị đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mương Lễ, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (Sơn La) Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại thành vùng (thừa tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ : An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ đạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc ; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận ; họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trí chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trí được cử làm quan đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3-1948, lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1958.
Người Thái còn được gọi là người Tày, Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là con cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.
Dân cư
Tại Việt Nam, người Thái có số dân là 1.000.000 người, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La), Lộc, Lự, Lượng (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.
* Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc Hà Sơn Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc (Hà Sơn Bình) và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
* Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Lai Châu (Điện Biên, Tuần Giáo). Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thành (vùng Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ Tĩnh định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào.
* Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hà Sơn Bình) và các huyện miền núi Mường Khoòng (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ Tĩnh).
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Ngôn ngữ
Người Thái nói các thứ tiếng thuộc Nhóm ngôn ngữ Tày-Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái Lan, tiếng Lào của người Lào, tiếng bộ tộc Shan ở Miến Điện, và tiếng của tộc Choang ở miền nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, 8 sắc tộc thiểu số gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
Đặc điểm kinh tế
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Văn hóa
Hôn nhân
Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng.
Tục lệ ma chay
Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".
Văn hóa dân gian
Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xon xao, Khun Lú, Nàng Ưửa. Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khăp. khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xòe, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái.
Nhà cửa
Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam.
Trang phục
Có nhiều nhóm địa phương với những phong cách trang phục khác nhau.
Trang phục nam
Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam giới người Thái mặc áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc điểm của áo cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may (vì cơ bản giống ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc đa dạng của loại vải cổ truyền của cộng đồng sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm, trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà phê... Trong các ngày lễ, tết, họ mặc loại áo dài xẻ nách phải màu chàm, đầu quấn khăn, chân đi guốc. Trong tang lễ họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với lối cắt may dài, thụng, không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu.
Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc âu phục khá phổ biến.
Trang phục nữ
Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo hai ngành Thái Tây Bắc là Thái Trắng (Táy khao) và Thái Đen (Táy đăm)
* Thái Trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái Trắng mặc áo cánh ngắn (xửa cóm), váy màu đen không trang trí hoa văn. Áo thường là màu sáng, trắng, cài cúc bạc tạo hình bướm, ve, ong... Cái khác xửa cóm Thái Đen là cổ áo hình chữ V. Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen, phía trong gấu đáp vải đỏ. Khi mặc xửa cóm và váy phụ nữ Thái còn tấm choàng ra ngoài được trang trí nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải chàm dài trên dưới 2 mét... Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo đầu thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng vải 'khít' ở giữa thân có tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành.
* Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn piêu thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc có chồng và chưa chồng cũng giống ngành Thái Trắng. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn Thái Trắng.
Lịch sử
Người Thái có mặt tại Việt Nam đã từ lâu. Theo sách sử Việt Nam, vào thời Lý, đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại nhà Trần và bị đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mương Lễ, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (Sơn La) Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái được tổ chức lại thành vùng (thừa tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ : An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ đạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc ; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận ; họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trí chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trí được cử làm quan đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3-1948, lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1958.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
45.Người Xinh Mun
Dân tộc Xinh Mun
Tên gọi khác Puộc, Pụa
Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer
Dân số 10.000 người.
Cư trú Cư trú ở vùng biên giới Việt - Lào thuộc hai tỉnh Sơn La, Lai Châu.
Đặc điểm kinh tế Người Xinh Mun sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng lúa nếp và ngô là chính. Có loại nương chọc lỗ tra hạt giống, có nương dùng cuốc và có nương dùng cày để canh tác. Một số nơi có ruộng nước. Trước kia đồng bào nuôi trâu, dê, lợn... thả rông, nay nhiều bản đã làm chuồng xa nhà cho súc vật. Hái lượm và săn bắn góp phần quan trọng cho đời sống đồng bào. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền, đồng bào thường đổi đồ đan cho người Thái, người Lào để lấy một phần đồ mặc và đồ sắt. Người Xinh Mun có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần, thích gia vị cay.
Tổ chức cộng đồng Trước kia người Xinh Mun sống du canh, du cư, nay đồng bào đã sống ổn định và lập những làng đông đúc. Người Xinh Mun đa số mang họ Lò, họ Vi. Mỗi họ đều có kiêng cữ riêng. Các con theo họ cha. Trong nhà, khi người bố chết, thì con trai cả giữ vai trò quan trọng.
Hôn nhân gia đình Trong hôn nhân, nhà trai phải đưa tiền cho nhà gái. Sau lễ dạm, lễ hỏi mới đến lễ đi rể, thường sau vài ba năm lúc cô dâu chú rể đã có vài ba con, nhà trai mới tổ chức đón dâu về. Kể từ lễ đi ở rể, đôi vợ chồng phải đổi tên riêng của mình, lấy chung một tên khác do cậu, bố mẹ vợ hay thầy cúng đặt cho.Phụ nữ Xinh Mun thường đẻ tại nhà. Khi con gần đầy tháng, cha mẹ nhờ thầy cúng đặt tên.
Tục lệ ma chay Khi có người chết, người nhà bắn súng báo tin cho dân làng biết. Đồng bào không có tục cải táng, tảo mộ...
Nhà cửa Đồng bào ở nhà sàn, mái hình mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi.
Trang phục Không có cá tính dân tộc mà chịu ảnh hưởng trang phục Thái đen (giống người Kháng).
Dân tộc Xinh Mun
Tên gọi khác Puộc, Pụa
Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer
Dân số 10.000 người.
Cư trú Cư trú ở vùng biên giới Việt - Lào thuộc hai tỉnh Sơn La, Lai Châu.
Đặc điểm kinh tế Người Xinh Mun sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng lúa nếp và ngô là chính. Có loại nương chọc lỗ tra hạt giống, có nương dùng cuốc và có nương dùng cày để canh tác. Một số nơi có ruộng nước. Trước kia đồng bào nuôi trâu, dê, lợn... thả rông, nay nhiều bản đã làm chuồng xa nhà cho súc vật. Hái lượm và săn bắn góp phần quan trọng cho đời sống đồng bào. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền, đồng bào thường đổi đồ đan cho người Thái, người Lào để lấy một phần đồ mặc và đồ sắt. Người Xinh Mun có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần, thích gia vị cay.
Tổ chức cộng đồng Trước kia người Xinh Mun sống du canh, du cư, nay đồng bào đã sống ổn định và lập những làng đông đúc. Người Xinh Mun đa số mang họ Lò, họ Vi. Mỗi họ đều có kiêng cữ riêng. Các con theo họ cha. Trong nhà, khi người bố chết, thì con trai cả giữ vai trò quan trọng.
Hôn nhân gia đình Trong hôn nhân, nhà trai phải đưa tiền cho nhà gái. Sau lễ dạm, lễ hỏi mới đến lễ đi rể, thường sau vài ba năm lúc cô dâu chú rể đã có vài ba con, nhà trai mới tổ chức đón dâu về. Kể từ lễ đi ở rể, đôi vợ chồng phải đổi tên riêng của mình, lấy chung một tên khác do cậu, bố mẹ vợ hay thầy cúng đặt cho.Phụ nữ Xinh Mun thường đẻ tại nhà. Khi con gần đầy tháng, cha mẹ nhờ thầy cúng đặt tên.
Tục lệ ma chay Khi có người chết, người nhà bắn súng báo tin cho dân làng biết. Đồng bào không có tục cải táng, tảo mộ...
Nhà cửa Đồng bào ở nhà sàn, mái hình mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi.
Trang phục Không có cá tính dân tộc mà chịu ảnh hưởng trang phục Thái đen (giống người Kháng).
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
46.Người Xơ-Đăng
Dân tộc Xơ Đăng, còn có tên gọi khác là Xơ Đeng, Ca Dong, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan, là một trong số những dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
97.000 người.
Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.
Hôn nhân gia đình
Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.
Văn hóa
Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu. Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không hề dùng đến đinh sắt, dây thép... Nhà rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu lạc bộ trong làng của đồng bào Xơ Đăng.
Trang phục
Còn ở trình độ phát triển chậm và đây cũng là nét chung của một số dân tộc khác trong khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên. Không có cá tính chung và điển hình cho phong cách kỹ thuật và mỹ thuật.
Dân tộc Xơ Đăng, còn có tên gọi khác là Xơ Đeng, Ca Dong, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan, là một trong số những dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
97.000 người.
Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.
Hôn nhân gia đình
Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.
Văn hóa
Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu. Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không hề dùng đến đinh sắt, dây thép... Nhà rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu lạc bộ trong làng của đồng bào Xơ Đăng.
Trang phục
Còn ở trình độ phát triển chậm và đây cũng là nét chung của một số dân tộc khác trong khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên. Không có cá tính chung và điển hình cho phong cách kỹ thuật và mỹ thuật.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
47.Người Xtiêng
Dân tộc Xtiêng
Tên gọi khác Xa Điêng
Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer
Dân số 50.000 người.
Cư trú Cư trú tập trung tại một số huyện tỉnh Bình Dương và Bình Phước và một phần sinh sống ở Đồng Nai và Tây Ninh.
Đặc điểm kinh tế Nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu. Nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với người M'Nông và người Mạ.
Tổ chức cộng đồng Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một ông già am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức...
Hôn nhân gia đình Người Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ. Thông thường con trai từ tuổi 19-20, con gái từ tuổi 15-17 bắt đầu tìm bạn đời. Sau lễ cưới cô dâu về nhà chồng. (người xtieng ở rể nên chú rể ở nhà vợ mới đúng)
Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy nhất là bộ chiêng 6 cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hòa giải xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu cũng được đồng bào ưa thích. Cuối mùa khô, đồng bào hay chơi thả diều.
Nhà cửa Tình hình nhà ở của người Xtiêng hiện nay hết sức phức tạp. Ví dụ: người Xtiêng ở Bù lơ sống trong nhà đất dài - gia đình lớn phụ hệ; Ơở Đắc Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nhà đất ngắn - gia đình nhỏ; Ơở Bù Đeh người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài (chịu ảnh hưởng nhà người Khơ me) - gia đình lớn mẫu hệ. Bộ khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn hay đất (xưa) đều trên cơ sở vì hai cột (không có kèo). Nếu căn cứ vào cấu tạo của bộ khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy thì nhà đất của người Xtiêng quả là rất cổ. Nhà đất của người Xtiêng chỉ như là một cái chòi, mái được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào rất thấp. Mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người Mạ.
Trang phục Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, tai sâu lỗ, hoa tai bằng gỗ, ngà voi và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều thích đeo các loại vòng. Trẻ em còn nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.
Dân tộc Xtiêng
Tên gọi khác Xa Điêng
Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer
Dân số 50.000 người.
Cư trú Cư trú tập trung tại một số huyện tỉnh Bình Dương và Bình Phước và một phần sinh sống ở Đồng Nai và Tây Ninh.
Đặc điểm kinh tế Nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu. Nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với người M'Nông và người Mạ.
Tổ chức cộng đồng Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một ông già am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức...
Hôn nhân gia đình Người Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ. Thông thường con trai từ tuổi 19-20, con gái từ tuổi 15-17 bắt đầu tìm bạn đời. Sau lễ cưới cô dâu về nhà chồng. (người xtieng ở rể nên chú rể ở nhà vợ mới đúng)
Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy nhất là bộ chiêng 6 cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hòa giải xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu cũng được đồng bào ưa thích. Cuối mùa khô, đồng bào hay chơi thả diều.
Nhà cửa Tình hình nhà ở của người Xtiêng hiện nay hết sức phức tạp. Ví dụ: người Xtiêng ở Bù lơ sống trong nhà đất dài - gia đình lớn phụ hệ; Ơở Đắc Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nhà đất ngắn - gia đình nhỏ; Ơở Bù Đeh người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài (chịu ảnh hưởng nhà người Khơ me) - gia đình lớn mẫu hệ. Bộ khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn hay đất (xưa) đều trên cơ sở vì hai cột (không có kèo). Nếu căn cứ vào cấu tạo của bộ khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy thì nhà đất của người Xtiêng quả là rất cổ. Nhà đất của người Xtiêng chỉ như là một cái chòi, mái được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào rất thấp. Mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người Mạ.
Trang phục Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, tai sâu lỗ, hoa tai bằng gỗ, ngà voi và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều thích đeo các loại vòng. Trẻ em còn nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
48.Người Ra Glai
Dân tộc Ra Glai, còn viết là Ra-glai hoặc Raglai (tên gọi khác Ra Glây, Hai, Noana, La Vang) là dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa đảo (Malay-Polynesia) cư trú chủ yếu ở huyện Khánh Sơn, phía Nam tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Ninh Thuận. Dân số 70.000 người.
Đặc điểm kinh tế
Trước đây dân tộc Ra Glai sống du canh bằng nương rẫy. Trên rẫy thường trồng lúa ngô... Hiện nay họ làm cả ruộng nước. Săn bắn, hái lượm và các nghề thủ công (chủ yếu là nghề rèn và đan lát) giữ vai trò quan trọng trong mỗi gia đình.
Tổ chức cộng đồng
Người Ra glai sống thành từng pa-lây (buôn làng) trên khu đất cao, bằng phẳng và gần nguồn nước. Mỗi pa-lây thường gồm vài chục nóc nhà của một dòng họ. Số thành viên trong nhà thường gồm bố, mẹ và các con chưa lập gia đình. Đứng đầu pa-lây là pô pa-lây (trưởng làng), thường đó là người có công khai phá đất đầu tiên. Trưởng làng có trách nhiệm làm lễ cúng trời đất khi bị hạn hán nặng. Người có uy tín nhất dòng họ gọi là kây pa-lây (già làng).
Già làng Pi Năng Huỳnh từng là đại úy quân đội, 15 năm làm Bí thư huyện ủy Khánh Sơn (thôi chức năm 1987) và là người Ra glai đầu tiên tham gia Ban chấp hành Tỉnh ủy Khánh Hòa.
Hôn nhân gia đình
Trong xã hội người Ra Glai còn tồn tại chế độ mẫu hệ, đàn ông sống trọn đời ở nhà vợ, con cái đều lấy họ mẹ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong gia đình được thừa hưởng tài sản. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyền quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyền của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Ra Glai có nhiều dòng họ: Chamalé hay Chăm Ma-Léc (tiếng Việt dịch là Mấu), Pi Năng (tiếng Việt dịch là Cau, đọc trại là Cao), KaTơr hay Ka-Tơ (tiếng Việt dịch là Bo Bo), Ha Vâu (tiếng Việt dịch là Tro), Pu Pươi, Asah, ... trong đó họ Chamalé là đông hơn cả. Mỗi họ đều có một sự tích, truyền thuyết kể về nguồn gốc của họ mình.
Văn hóa
Người Ra Glai có những trường ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích mang giá trị lịch sử, nghệ thuật và có tính giáo dục sâu sắc.
Hình thức hát đối đáp khá phổ biến trong sinh hoạt văn nghệ. Nhạc cụ của người Ra Glai gồm nhiều loại, ngoài chiêng, cồng còn có đàn bầu, kèn môi, đàn ống tre...
Hàng năm sau mùa thu hoạch, cả làng hội tụ thịt trâu, bò, lợn để cúng Giàng và ăn mừng lúa mới.
Nhà cửa
Nhà sàn là nhà ở truyền thống của người Ra Glai. Từ nền đất đến nhà sàn không cao quá một mét.
Trang phục
Không có cá tính tộc người qua trang phục mà chịu ảnh hưởng khá đậm của các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ (như Chăm, Ê Đê...).
Dân tộc Ra Glai, còn viết là Ra-glai hoặc Raglai (tên gọi khác Ra Glây, Hai, Noana, La Vang) là dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa đảo (Malay-Polynesia) cư trú chủ yếu ở huyện Khánh Sơn, phía Nam tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Ninh Thuận. Dân số 70.000 người.
Đặc điểm kinh tế
Trước đây dân tộc Ra Glai sống du canh bằng nương rẫy. Trên rẫy thường trồng lúa ngô... Hiện nay họ làm cả ruộng nước. Săn bắn, hái lượm và các nghề thủ công (chủ yếu là nghề rèn và đan lát) giữ vai trò quan trọng trong mỗi gia đình.
Tổ chức cộng đồng
Người Ra glai sống thành từng pa-lây (buôn làng) trên khu đất cao, bằng phẳng và gần nguồn nước. Mỗi pa-lây thường gồm vài chục nóc nhà của một dòng họ. Số thành viên trong nhà thường gồm bố, mẹ và các con chưa lập gia đình. Đứng đầu pa-lây là pô pa-lây (trưởng làng), thường đó là người có công khai phá đất đầu tiên. Trưởng làng có trách nhiệm làm lễ cúng trời đất khi bị hạn hán nặng. Người có uy tín nhất dòng họ gọi là kây pa-lây (già làng).
Già làng Pi Năng Huỳnh từng là đại úy quân đội, 15 năm làm Bí thư huyện ủy Khánh Sơn (thôi chức năm 1987) và là người Ra glai đầu tiên tham gia Ban chấp hành Tỉnh ủy Khánh Hòa.
Hôn nhân gia đình
Trong xã hội người Ra Glai còn tồn tại chế độ mẫu hệ, đàn ông sống trọn đời ở nhà vợ, con cái đều lấy họ mẹ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong gia đình được thừa hưởng tài sản. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyền quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyền của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Ra Glai có nhiều dòng họ: Chamalé hay Chăm Ma-Léc (tiếng Việt dịch là Mấu), Pi Năng (tiếng Việt dịch là Cau, đọc trại là Cao), KaTơr hay Ka-Tơ (tiếng Việt dịch là Bo Bo), Ha Vâu (tiếng Việt dịch là Tro), Pu Pươi, Asah, ... trong đó họ Chamalé là đông hơn cả. Mỗi họ đều có một sự tích, truyền thuyết kể về nguồn gốc của họ mình.
Văn hóa
Người Ra Glai có những trường ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích mang giá trị lịch sử, nghệ thuật và có tính giáo dục sâu sắc.
Hình thức hát đối đáp khá phổ biến trong sinh hoạt văn nghệ. Nhạc cụ của người Ra Glai gồm nhiều loại, ngoài chiêng, cồng còn có đàn bầu, kèn môi, đàn ống tre...
Hàng năm sau mùa thu hoạch, cả làng hội tụ thịt trâu, bò, lợn để cúng Giàng và ăn mừng lúa mới.
Nhà cửa
Nhà sàn là nhà ở truyền thống của người Ra Glai. Từ nền đất đến nhà sàn không cao quá một mét.
Trang phục
Không có cá tính tộc người qua trang phục mà chịu ảnh hưởng khá đậm của các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ (như Chăm, Ê Đê...).
Re: †_54 dân tộc Vjệt Nam_†
49.Người Mạ
Dân tộc Mạ (có tên gọi khác Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn) là dân tộc thiểu số với số dân khoảng 26.000 người, cư trú chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Tiếng dân tộc Mạ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Kinh tế
Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chọc lỗ. Ơở vùng Đồng Nai (huyện Cát Tiên) có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về. Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ơở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tổ chức cộng đồng
Người Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng).
Hôn nhân gia đình
Nhà trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Văn hóa
Kho tàng văn học dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyền thuyết, huyền thoại độc đáo. Nhạc cụ có bộ chiêng, đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Nhà cửa
Nhà người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể "đại diện" cho nhà của người Cơ ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế. Nhà ở cổ truyền của người Mạ là nhà sàn dài tới 20-30m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhỏ.
Bộ khung nhà với ba vì hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thường là ngoãm tự nhiên và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có "sừng" trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình "parabôn". Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào khỏi đụng đầu.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của mọi gia đình (tiếp khách, cúng bái...), nơi này có bàn thờ thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần... Các hộ gia đình ở về hai bên của khu trung tâm.
Phần diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên 1 mét.
Dưới gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách haậu là sạp dành cho mọi thành viên trong gia đình. Giáp vách tiền là một sạp nhỏ và thấp (khoảng 70-80cm) trên để bát, đĩa, vỏ bầu khô và các thứ lặt vặt khác.
Nhà người Cơ ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của họ cũng giống nhà ngườ Mạ. Cái khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiền, cái sạp ở nhà người Mạ thì người Cơ ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang phục
Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều vòng trang sức.
Trang phục nam
Thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Aáo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy. Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Aáo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là các sọc : màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm chủ yếu là hoa văn hình học theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh.
Nam nữ thường thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.
Dân tộc Mạ (có tên gọi khác Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn) là dân tộc thiểu số với số dân khoảng 26.000 người, cư trú chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Tiếng dân tộc Mạ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Kinh tế
Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chọc lỗ. Ơở vùng Đồng Nai (huyện Cát Tiên) có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về. Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ơở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tổ chức cộng đồng
Người Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng).
Hôn nhân gia đình
Nhà trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Văn hóa
Kho tàng văn học dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyền thuyết, huyền thoại độc đáo. Nhạc cụ có bộ chiêng, đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Nhà cửa
Nhà người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể "đại diện" cho nhà của người Cơ ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế. Nhà ở cổ truyền của người Mạ là nhà sàn dài tới 20-30m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhỏ.
Bộ khung nhà với ba vì hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thường là ngoãm tự nhiên và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có "sừng" trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình "parabôn". Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào khỏi đụng đầu.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của mọi gia đình (tiếp khách, cúng bái...), nơi này có bàn thờ thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần... Các hộ gia đình ở về hai bên của khu trung tâm.
Phần diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên 1 mét.
Dưới gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách haậu là sạp dành cho mọi thành viên trong gia đình. Giáp vách tiền là một sạp nhỏ và thấp (khoảng 70-80cm) trên để bát, đĩa, vỏ bầu khô và các thứ lặt vặt khác.
Nhà người Cơ ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của họ cũng giống nhà ngườ Mạ. Cái khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiền, cái sạp ở nhà người Mạ thì người Cơ ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang phục
Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều vòng trang sức.
Trang phục nam
Thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Aáo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy. Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Aáo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là các sọc : màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm chủ yếu là hoa văn hình học theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh.
Nam nữ thường thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn.
Trang 1 trong tổng số 2 trang • 1, 2
Trang 1 trong tổng số 2 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết